Monday, July 18, 2011

LẬT NGƯỢC THẾ CỜ...

Hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở làng Cổ Mân, tổng An Lưu, huyện Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc phường Hoà Quý, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, có xảy ra vụ kiện về đất đai khá hi hữu. Nguyên hai làng Cổ Mân và Tùng Lâm cách nhau một con sông gọi là sông Cái. Do lũ lụt hàng năm, đất bên làng Tùng Lâm bị xói lở. Chuyện đất ven sông bên lở bên bồi là chuyện thường. Bên lở, làng Tùng Lâm, thấy cứ mỗi năm mất thêm tí đất trong khi bên kia, làng Cổ Mân, đất cứ bồi mãi, nên mới sinh chuyện.
Xưa có câu “Công sản công trưng, tư sản tư trưng”, nghĩa là cái gì thuộc sở hữu của làng, làng phải thu về cho làng. Cho nên, đất làng Tùng Lâm xói lở, lại bồi phía làng Cổ Mân. Do vậy, đất bồi của làng Cổ Mân đích thị là đất của làng Tùng Lâm. Đó là lý lẽ của dân làng Tùng Lâm khi đâm đơn đi kiện làng Cổ Mân. Thật ra, nói làng Tùng Lâm kiện nhưng thật ra là đám thân hào, nhân sĩ ở làng mới là những người khởi xướng vụ kiện tụng này. Nguyên Tùng Lâm bấy giờ có mấy người như ông Thông Chương, ông Phó Liễn làm cho Pháp. Họ có thế lực. Còn làng Cổ Mân thân cô thế cô. Người trong làng chẳng có ai làm quan cho Nam triều hay cho Pháp. Vậy nên, kiện đến đâu, dù là tổng, huyện hay tỉnh, thậm chí ra đến bộ, Cổ Mân cũng thua.
Vua Khai Dinh

Đã thua, Cổ Mân phải giao đất lại cho Tùng Lâm. Nhưng, dân làng Cổ Mân không  ai chịu, tìm mọi cách “phá đám”. Cứ đến ngày quan trên cử người đến đo đạc đất, thể nào cũng sinh chuyện. Làng cứ để đo... cả ngày. Rồi chờ đến xế chiều, thừa lúc người ghi chép sơ hở, dân làng Cổ Mân mới chạy ra, giựt lấy cuốn sổ, vọt chạy. Xung quanh chuyện giựt sổ đo đạc, lại có câu chuyện kể khá lý thú rằng bấy giờ có ông Kiều Bạn người làng Cổ Mân, làm rễ ông Tri bộ làng Tùng Lâm. Chính ông này có nhiệm vụ giữ sổ bộ làng và cũng là người đi ghi chép vào cuốn sổ nói trên. Năm ấy, sau khi được phân công “giựt sổ”, ông Kiều Bạn chờ cho cha vợ đo đạc xong, mới lại gần, bảo “Cha hút thuốc, để con mồi lửa cho!”. Ông trị bộ Tùng Lam tưởng con rễ mồi lửa như mọi khi, chẳng nghi ngờ chi. Thế là ông con rễ vừa mồi xong, liền giựt lấy cuốn sổ. Ông tri bộ la lên “Giảng, răng mi giựt sổ tao? Giảng? Mi làm chi lạ rứa? Đưa sổ đây!”. Ông con rễ vừa thưa lại vừa bỏ chạy “Phần cha là phần cha, phần con là phần con. Con là người Cổ Mân, con phải giành quyền lợi lại cho Cổ Mân!”. Ông gia kêu trời, nhưng cũng đành chịu.
Dĩ nhiên, chuyện phân công chính con rễ đi giựt sổ cũng diễn ra một lần. Lần thứ hai, không thể áp dụng vì ông gia đã cảnh giác. Cho nên, Cổ Mân phải bố trí những người khác, công phu và tỉ mỉ hơn. Thường thường, khi tiến hành đo đạc, chính quyền đương thời có cử mấy người lính đi bảo vệ. Nhưng, bảo vệ làm sao được khi dân làng Cổ Mân quyết phá. Ngay trước khi chính quyền tổ chức đo đạc, lý trưởng đã huy động đàn bà chuẩn bị một loại cây gọi là cây găng, loại cây có mắc, cất giấu ngay bờ sông, phòng khi hữu sự. Theo hiệu lệnh đã thông báo trước, ngay sau khi người được phân công giựt cuốn sổ đo đạc đã giựt xong, làng đánh trống. Tức thì, đàn bà núp sẵn ở đâu đó tất cả đều chạy ùa ra, đến ngay chỗ cất giấu cây, gậy, thủ trong tay, rồi chạy xuống đuổi viên tri bộ Tùng Lâm. Trong đó, người hăng nhất là bà giáo Thận. Thấy khí thế bừng bừng của dân làng, tri bộ, rồi cả quan lẫn lính Tây cũng hoảng sợ, vội vàng xuống tàu đã đậu sẵn mà chạy.
Và, năm nào cũng như năm nào, sự việc cứ lặp đi lặp lại, qua hai đời lý trưởng làng Cổ Mân là ông Cửu Toản và ông Kiều Đạo. Thấy chuyện đo đạc vừa phức tạp, tốn nhiều công sức những lần nào cũng biến thành công cốc, làng Tùng Lâm mới thôi, không tiến hành đo đạc nữa mà chuyển qua cắm mốc cho... chắc ăn. Gì thì gì chứ nếu Tùng Lâm cắm mốc thì Cổ Mân thua chắc. Làng mới tổ chức họp bàn cách đối phó. Trong lúc mọi người bóp trán suy nghĩ, bỗng có ai đó nhắc đến bà Hoài[1], người tộc Phạm, là vợ thứ của vua Khải Định, cha vua Bảo Đại. Tương truyền, thuở hàn vi, do gia cảnh khó khăn, bà mới ra Huế bán chè cho khách qua đường. Một lần, vua Khải Định ngang qua, thấy bà đẹp quá, bèn lấy làm thiếp. Thế là làng mới cử người ra tận Huế, tìm mọi cách gặp cho bằng được bà Hoài, trình bày đầu đuôi vụ kiện, nhờ giúp đỡ. Bà Hoài nhận lời ngay. Thông qua bà, vua Bảo Đại bèn phê vào lá đơn. Có lời phê của vua, con dấu đỏ chót, vụ kiện coi như chấm dứt. Làng Cổ Mân đã lật ngược thế cờ, từ thua trở thành thắng!



[1] Được biết, sau  cách mạng tháng tám năm 1945, bà Hoài, thiếp của vua Khải Định, có về sống ở Nam Ô. Ông Kiều Ký, sinh năm 1922, người kể lại câu chuyện, có ra thăm bà Hoài. Bà không có con.

No comments: