Tuesday, May 29, 2012

CHUYỆN GHI Ở MỘT VẠN CHÀI


Đó là vạn chài Nồi Rang, nay thuộc xã Duy Nghĩa, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Đây là vạn chài có bề dày lịch sử hàng trăm năm. Cũng như nhiều vạn chài khác ở Quảng Nam, vạn chài Nồi Rang có những bước thăng trầm…
Theo các bậc cao niên, vạn chài Nồi Rang hình thành muộn nhất cũng vào nửa đầu thế kỷ XIX. Hầu hết các tộc họ đến vạn Nồi Rang đều là ngư dân ở nhiều địa phương, từ Duy Xuyên, Điện Bàn đến Hội An, Đại Lộc… Như tộc Nguyễn của ông Nguyễn Bụi, sinh năm 1939, nguyên gốc ở làng Thăng lộc, nay thuộc xã Duy Phước, huyện Duy Xuyên. Ông cho biết “Thật ra, từ đời xửa đời xưa, tổ tiên tui người Thanh Hoá. Khi vào Quảng Nam, mới chọn mảnh đất Thăng Lộc làm nơi sinh sống. Tổ tiên tui cũng là những người góp phần lập nên đình làng Thăng Lộc. Nhưng họ lại sinh sống bằng nghề chươm nò trên sông. Mãi đến đời ông cố tui, thấy nghề chươm nò cực quá, lại không đủ sống, mới qua làng Hội Sơn Nghĩa Lệ làm nghề mói. Đó là nghề lưới trích. Dĩ nhiên, tiếng là qua nhưng cũng như nhiều ngư dân ở vạn chài Nồi Rang lúc bấy giờ đều phải ở trên ghe. Vì đất trên bờ là đất của dân chính cư…”. Có thể nói, đó là bức tranh chung về quá trình tụ cư của ngư dân vạn chài Nồi Rang.



Mot goc lang van Noi Rang.  D.D

Ngư dân phải làm nhiều nghề, từ nghề lưới trích, đến nghề câu, nghề giã cào, nghề rớ… Xưa, chưa có máy nổ nên họ phải gồng sức để chèo. Lưới hồi ấy bằng tơ. Giá tơ đắt nên lưới cũng rất đắt. Trong các nghề thì hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nghề lưới trích là nghề khá phát triển. Mỗi ghe thường đi khoảng năm, bảy người, đem theo chừng ấy tấm lưới. Mỗi tấm dài độ 30 sải tay, rộng 1 sải. Cứ chiều tối, cả đoàn khoảng sáu, bảy chiếc ghe chèo ra biển, cùng thả lưới mà đánh. Thời trước, cá trích ở gần bờ nhiều nên họ không cần phải đi xa. Khi đến nơi, bà con phân nhau thả lưới dày, chặn các lối đi nên cá không mắc lưới này thì mắc lưới khác. Hễ cá dính lưới nào thì chủ lưới hưởng. Ngoài cá trích, nghề lưới trích còn bắt được cả cá trỏng. Con cá này có hình thức gần giống với cá cơm nhưng đầu cá có khác chút ít. Hôm nào cá nhiều, đánh đến nửa khuya, còn không, phải đến 6 giờ sáng hôm sau chèo về cho kịp buổi chợ mai. Bà con thường đánh lưới trích ở Khô Đôi Nghê, một địa điểm gần hòn Khô, mũi Nghê. Đó cũng là đại điểm có nhiều mực, nên mới có danh xưng là Cồn Mực. Ai đánh mực thì hành nghề ở đây.


Tren song Han, Da nang. Anh tu lieu

Khi nghề lưới trích gặp khó khăn, bà con chuyển qua nghề câu. Nghề này đòi hỏi phải có mồi. Mùa nào mồi nấy. Nhưng gần như làm quanh năm, mùa nắng cũng như mùa mưa. Chỉ trừ trường hợp mua to, gió lớn. Ngư dân chủ yếu bủa cau trên biển, hiếm khi bủa sông. Nghề câu bắt nhiều loại cá ngừ, cá rựa, cá đổng, cá hồ, cá mối… Ở Duy Nghĩa, nghề câu tương đối nổi bật nên vạn Nồi Rang còn có danh xưng là vạn câu Nồi Rang. Ngay ở thôn Hồng Triều cũng có không dưới ba chục hộ hành nghề câu. Bên cạnh nghề câu, còn có nghề rớ, nghề giã cào. Nghề rớ bắt nhiều loại cá. Nhưng nghề giã cào chủ yếu bắt tôm vì tôm thường năm im. Trước đây, cá tôm nhiều, tuy đánh bắt thủ công nhưng ngư dân vẫn có ăn. Ở vạn câu Nồi Rang, người bủa câu giỏi nhất là ông Nguyễn Có. Sau đó, là các ông Nguyễn Bưng, Nguyễn Đủ… Cùng với nghề câu, ngư dân địa phương còn phát triển nghề mành. Xưa, nghề mành xưa khi chưa có đèn. Ngư dân phải đánh thầm. Cứ đêm đến, giong thuyền ra biển mà đánh. Mãi đến đầu thế kỷ XX, bà con mới sử dụng đèn măng xông đánh bắt. Sau năm 1975, người ta bắt đầu dùng thêm đèn điện.
Đặc biệt, ở đây cũng có nghề câu cá mập. Lưỡi câu cá mập lớn nhất, có thể bắt được những con nặng hàng trăm ký. Thường, câu cá mập, mỗi ghe đi năm, bảy người. Người đông nhưng lắm lúc gặp con cá to quá kéo cũng không nổi, phải mượn người ghe khác kéo giùm. Xưa câu cá mập câu ban ngày. Sau, không hiểu sao cá mập không ăn mồi ban ngày mà ăn ban đêm nên phải chuyển qua bủa câu vào ban đêm. Chờ đến sáng mới kéo. Có hôm một giàn câu ăn đôi ba con. Nhiều con còn sống quẫy đập rất mạnh. Nó vừa quẫy, vừa cố sức kéo ghe đi. Nhưng ngư dân có cách khống chế nó. Họ dùng một dụng cụ gọi là chằm. Đó là một cây dài hai ba sải, phía trước có lưỡi bằng sắt để bấu vào thân cá, không cho nó quẫy. Chằm có chằm nhứt, chằm nhì, chằm ba. Cứ ba cái chằm này bấu vào thân cá mập, kèm chặt, khiến nó khó có thể quẫy. Càng quẫy mạnh, lưỡi chằm càng “ăn” vào thân, khiến nó đau thắt. Thế là ngư dân mới dần dần đưa nó vào gần ghe, rồi lấy vồ đập cho chết. Ấy là những con cá hàng trung. Gặp cá to quá, phải có thêm người phụ giúp. Xưa, những ngư dân đi câu cá mập thường đem theo cờ. Khi có cá to quá, phất cờ lên, làm dấu. Ghe khác, thấy phất cờ, biết có chuyện, chạy đến giúp. Nay tôi giúp anh, mai anh giúp lại, nên không phải trả tiền công cán gì.
Cá đánh được, nếu cá lớn, thường là cá biển, bán cho chủ các lò kho. Nguyên những đầu thập kỷ 1960 trở về trước, ngư dân đánh bắt ngoài Cửa Đại. Họ chèo ghe ra. Ghe là ghe lớn nên đi rất lâu. Cá đánh được rồi, nếu chèo về Duy Nghĩa, sẽ ươn mất. Bởi làm gì có đá để ướp. Và, chì có nước… đổ đi. Cũng may không biết từ bao giờ, ở làng Nhân Bồi, nay thuộc xã Duy Thành, có nhiều gia đình làm lò để… kho cá, đem lên cung cấp cho dân ở các làng, xã miền núi. Thế cho nên, làng Nhân Bồi còn có tên dân dã là… Làng Kho. Cứ mỗi lò kho ngày ngày cử hai người đi mua cá. Họ đi ghe con con, dùng mái chèo nhỏ mà chèo. Người ta gọi là “bơi”. Ghe đi nhanh lắm. Cứ men theo hai bên bờ sông lướt đi thoăn thoắt. Đến nơi, họ mua các chủ ghe quen. Tươi ươn gì cũng mua. Xong, quay đầu ghe “bơi” về. Ở nhà, chủ lò kho đã nhen lửa sẵn, chỉ việc bỏ cá vào… hấp cách thủy. Nhưng, trong nồi nước hấp, họ bỏ muối. Cho nên, hơi nước đã mang theo muối. Vậy là cá cứng ngắt. Con ươn cũng cứng. Cá sẽ để được lâu. “Kho” rồi, ngay sáng sơm ngày mai sẽ có bạn hàng mua cá lên cung cấp cho bà con ở miền núi. Từ sau năm 1975, những lò kho cá ở làng Nhân Bồi không còn hoạt động. Riêng cá tươi, chủ yếu cá nhỏ, đánh bắt trên sông, được bà con bán ở chợ Nồi Rang. Có một chi tiết khá đặc biệt. Bất cứ mùa nào, nếu là cá nhỏ, còn tươi, người dân có một cách để “ướp” cá mà không cần đá. Đó là muối đất. Cứ trải một lớp cá, phủ lên lớp đất. Coi như đất thay đá. Theo bà con, muối như vậy có thể giữ cá khỏi ương qua đêm. Sáng mai, rửa sạch cá, con cá vẫn còn tươi, dù không được đẹp
Cũng như nhiều làng cá khác, nghề cá hiếm ai giàu có, chủ yếu đắp đổi qua ngày là chính. Số hộ khá lên chỉ đém trên đầu ngón tay. Cho nên, hồi nửa đầu thế ký XX, cả vạn Nồi Rang, không có ai đủ sức mua đất làm nhà. Tất cả đều ở dưới ghe. Nhà kha khá một chút, có ba bốn chiếc ghe. Nhà nghèo, cũng hai, ba chiếc. Tùy theo túi tiền mà sắm ghe to, ghe nhỏ. Rồi, cả gia đình, vợ con… chen chúc trên ghe. Đám cưới, đám hỏi, tiệc tùng, giỗ chạp cũng ở trên ghe. Bấy giờ, cứ đến vạn Nồi Rang, sẽ thấy ghe đậu chật cả bến sông. Thời trước, ngư dân làm đến tháng 7 thì nghỉ vì mưa bão. Đồ nghề họ cất đi, năm sau làm tiếp. Thời gian chủ yếu họ tán dóc. Còn vợ con đi thu hoạch khoai mùa tháng tám giùm cho gia chủ rồi họ cho bao nhiêu thì cho. Cũng có người đi mót khoai mụt, khoai chạc còn sót lại để ăn hoặc bán. “Xưa cực đắng chứ không phải như bây giờ”. Ông Nguyễn Bụi vừa vá lưới vừa kể. Cho nên, mãi đến năm  1954, trong làng vạn mới có người mua đất lên bờ. Trong đó, người đầu tiên là ông Nguyễn Thơm. Ông này mua đất được là nhờ bà vợ đi buôn bán ở vạn Nồi Rang. Kế đến là các ông Đinh Trải, Đinh Xây và một số gia đình khác.
 Từ sau ngày giải phóng, bà con làng vạn lần lượt lên bờ, chấm dứt cuộc sống dưới ghe. Nhờ sự quan tâm, hỗ trợ về nhiều mặt của chính quyền các cấp, đời sống của bà con từng bước được cải thiện. Hầu hết bà con đều xây được nhà kiên cố. Trong hàng trăm hộ ngư dân ở làng cá Duy Nghĩa, đã có trên 30 hộ sắm tàu lớn, có khả năng đi đánh bắt cá xa bờ. Những hộ còn lại làm nhiều nghề, từ nghề câu, nghề rớ, giã cào đến nghề mành… Và, cũng khác xưa, họ áp dụng nhiều phương tiện đánh bắt cá tiên tiến. Sản lượng khai thác cũng nhiều hơn. Đặc biệt, bà con gần như làm quanh năm. Trời yên, biển lặng thì ra khơi. Không thì làm những nghề ven bờ. Hoặc đánh bắt cá trên sông. Nói như ông Nguyễn Bụi, chỉ trừ những khi trời mưa to, gió lớn, sóng biển dữ dội, còn những ngày còn lại, phải bám biển, bám sông mà sống. Như ông chẳng hạn, dù không có tàu lớn đi xa, nhưng mỗi ngày đi câu, cũng kiếm bình quân ba, bốn trăm ngàn. Còn, với những hộ đánh bắt cá xa bờ, mỗi chuyến đi kiếm vài triệu là chuyện thường. Cũng theo ông, nhờ vậy mà“đời sống dân làng chài chúng tôi so với trước đỡ hơn nhiều….”

Friday, May 18, 2012

TRUYỀN THUYẾT MỘT LÀNG RAU

Ghé thăm đô thị cổ Hội An, Di sản văn hoá thế giới của tỉnh Quảng Nam, một trong những địa chỉ tham quan không thể thiếu với du khách trong và ngoài nước là ghé thăm làng rau truyền thống Trà Quế. Đến đây, du khách không những có thể tận mắt chứng kiến khung cảnh sinh hoạt quen thuộc hàng ngày của người dân làng rau truyền thống, trực tiếp “thử” làm cư dân Trà Quế mà trong dịp hãn hữu nào đó, còn được các cụ già kể một số truyền thuyết khá lý thú và hấp dẫn…


Truyền thuyết kể rằng, thuở sơ khai, ông bà tổ tiên của cư dân Trà Quế vốn là những ngư dân thực thụ. Họ sinh sống bằng nghề lưới bén, chuyên đánh bắt cá tôm trên sông Đế Võng kiếm ăn qua ngày. Thế rồi, càng về sau, việc đánh bắt ngày càng khó khăn. Cuộc sống của ngư dân làng vạn rơi vào chỗ lao đao. Nhiều gia đình bữa đói, bữa no. Trong lúc bị dồn vào chân tường, một số bà con mới nghĩ đến việc thử khai phá thêm đất. Thôi thì nếu không thể trồng lúa, ta trồng thứ khác. Như rau chẳng hạn. Trước mắt là có rau ăn. Dư thừa bán cũng có tiền.
Lang rau Tra Que. Anh D.D


Từ suy nghĩ đơn giản ấy, họ bắt tay vào thực hiện. Những vạt ngò, rau húng rồi đến rau é, hành, cải, hẹ... lần lượt mọc lên trên vùng đất mới khai phá. Và, cũng thật bất ngờ, các loại rau kể trên không những lên xanh tốt mà còn có hương vị đặc biệt thơm ngon, không đâu sánh bằng.
Thế là một đồn mười, mười đồn trăm, cây rau Trà Quế từng bước nổi danh dần. Chẳng mấy chốc, các chợ lớn, chợ nhỏ trong vùng Hội An và lân cận trở thành thị trường tiêu thụ chính  của rau Trà Quế. Thấy có thể sống được từ nghề mới mẻ này, những hộ còn lại bắt chước làm theo. Chẳng ai đủ sức trụ lại với nghề đánh bắt cá tôm bấp bênh, bữa đực bữa cái nữa. Từ một làng vạn thuở ban đầu, Trà Quế dần dần biến thành một làng rau.
Cũng theo truyền thuyết, thuở sơ khai, khi mới đến lập làng, Trà Quế có tên là Nhự Quế, nghĩa nôm na là nhà nhà đều trồng rau thơm. Thế rồi, hồi đầu thập niên 1800, sau khi lên ngôi, nhân một lần đến Hội An, nghe các quan địa phương giới thiệu ở đây có một ngôi làng nhỏ bốn bề sông nước, chuyên trồng rau làm kế sinh nhai. Lại nghe nói rau ở đây hương vị rất thơm ngon tuyệt vời, không đâu sánh kịp, vua Gia Long lấy làm lạ. Thế là ngài mới ngự đến xem.



Vua Gia Long. Anh tu lieu

Được tin vua “ngự”, các bô lão trong làng hớn hở chọn những loại rau ngon nhất,  thơm nhất để dâng lên, gọi là rau “tiến vua”. Tất nhiên, phải là những thứ rau thượng hảo hạng. Gia Long thưởng thức, tấm tắc khen. Rồi ngài hỏi tên làng. Các bô lão bẩm rằng tên làng là Nhự Quế. Vua Gia Long trầm ngâm trong chốc lát. Sau đó, ngài phán rằng tên Nhự Quế cũng hay. Thế nhưng, tên Trà Quế hay hơn. “Vì “trà” chỉ một loại thức uống không kém phần thơm ngon, quen thuộc của người Việt. Cho nên, Gia Long mới cải sửa lại, từ Nhự Quế thành Trà Quế. Và, cũng theo tương truyền, danh xưng Trà Quế tồn tại mãi đến ngày nay…”[1]
Truyền thuyết vẫn là truyền thuyết, thật hư khó mà đoán định nổi. Điều chắc chắn là xưa nay, người Trà Quế luôn lấy nghề trồng rau làm nghề sinh sống chính.  Xưa, cư dân Trà Quế thường thức dậy từ lúc hai, ba giờ sáng, ăn uống qua loa rồi gánh gánh rau nặng ì ra tận Đà Nẵng. Khi tới An Hải, họ qua đò Hà Thân rồi bán sỉ ngay tại chợ Hàn. Xong, cũng theo đường biển mà về. Cả đi và về mất ngót năm sáu chục cây số, đâu ít ỏi gì. Mãi đến thập kỷ 1960, khi tuyến đường Đà Nẵng - Hội An có xe đò chạy thường xuyên, họ mới chuyển qua đi xe đò.
             Hiện nay, phương tiện giao thông phát triển, rau Trà Quế là loại rau được thị trường trong và ngoải tỉnh ưa chuộng. Nhờ vậy, nó có mặt ở nhiều nơi, từ Hội An, Tam Kỳ đến Đà Nẵng, có lúc còn vươn ra cả Huế. Và, thật thú vị biết nhường nào nếu có dịp hãn hữu nào đó, khách ghé thăm làng rau truyền thống nổi tiếng Trà Quế, vừa thưởng thức món ăn có sự góp mặt của rau thơm nổi tiếng địa phương, vừa nghe các cụ già xưa kể lại chuyện xưa, giữa buổi trưa hè, lại nghe giọng hát của ai đó từ xa vọng lại “Ai về Trà Quế thì về/ Trà Quế có nghề nấm giá đậu xanh/ Sớm mai đi bán rau hành/ Chiều về tưới nước suốt canh chưa nằm/ Khuya thì dậy sớm cắt rau/ Sáng lo đi bán suốt năm không nhàn”


[1] Ông Nguyễn Chấn, sinh năm 1937, một trong những bô lão làng Trà Quế, kể.

Sunday, May 13, 2012

SẮC BÙA NGÀY TẾT


Mỗi khi Tết đến, Xuân về, hình ảnh đội sắc bùa với khăn đóng áo dài, đem theo trống cơm, sinh tiền, phách tre, phía trước có một người xách chiếc lồng đèn bằng giấy, hình tam giác, thắp bằng dầu phụng, dưới có bốn tua đủ màu sắc, đi chúc Tết khắp làng trên xóm dưới trở thành hình ảnh quen thuộc với người dân ở làng Chấn Sơn: "Sắc bùa là sắc bùa âu/ Mong cho năm mới ăn xôi với chè/ Sắc bùa là sắc bùa hoè/ Mong cho năm mới ăn chè với xôi!".

Không chỉ làng Đại Sơn, hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hát sắc bùa còn là loại hình sinh hoạt văn hoá văn nghệ dân gian khá phổ biến ở ở nhiều làng xã ở Đại Lộc, Quế Sơn, Điện Bàn, Duy Xuyên, nhất là tại Giảng Hoà, Cổ Tháp, Thanh Châu, Bảo An, Đại Bình.... Có làng có một đội nhưng cũng có làng có đến... hai đội hắt sắc bùa. Môĩ đội ít cũng 5 người, nhiều có khi trên mười thành viên. Trong đó,  làng Chấn Sơn, nay thuộc xã Đại Hưng, huyện Đại Lộc, là một trong những địa phương có truyền thống lâu đời về hát sắc bùa.

Tết cuối cùng làng Chấn Sơn còn hát sắc bùa là Tết năm 1953[1]. Lúc đó, ông Lê Nhì còn trẻ lắm, chỉ hai mưới tám tuổi. Hồi ấy, ông nghe các cụ thuật lại rằng  trong cuộc hành trình từ Bắc vào Nam, ông bà tổ tiên làng Chấn Sơn đã mang theo loại hình sinh hoạt văn nghệ truyền thống này. Và, từ đó, hát sắc bùa được lưu truyền qua nhiều đời. Lớp trước dạy lớp sau. Mãi đến đầu thế kỷ XX thì đến thế hệ của ông Lê Nhì, thế hệ cuối cùng còn  duy trì hình thức sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian đặc sắc này.

Hat bai chuc mung gia chu. Anh D.D


Hát sắc bùa xưa thình hành vì nó có “đất sống”, được người dân yêu thích. Cho nên, Tết đến, người ta cứ háo hức trông chờ đội đi hát. Người lớn trông một thì đám con nít trông mười. Bấy giờ, tiếng trống cơm, tiếng sinh tiền, tiếng phách tre hoà lẫn tiếng hát của cả đôi sắc bùa.... có sức lôi cuốn diệu kỳ, trở thành một hình thức sinh hoạt văn hoá văn nghệ dân gian phổ biến không chỉ trong mà còn ở ngoài làng, ngoài tổng.
Không vui sao được khi những bài hát kháng chiến, có sức động viên, cổ vũ, nhưng cũng có sự lôi cuốn mạnh mẽ nhờ nhịp điệu sôi nổi, hào hứng, phù hợp với không khí rộn ràng của những ngày đầu năm mới“Ngoại hoá ngoại hoá/ Thứ gì xa lạ/ Vải ú hồng mao/ Vải phin hồng đào/ Những hàng xa xỉ/ Xà bông lược Mỹ/ Phấn sáp nước hoa/ Kẹp tóc sáng loà/ Xì gà thuốc điếu/ Thứ gì không thiếu/ Bán hết khắp nơi/ Xanh đỏ rợp trời/ Cũng đồ vải địch/ Trong lúc ham thích/ Chẳng biết rèn mình/ Vì đã vô tình/ Làm giàu cho giặc...”.
Doi sac bua Le Trach. Anh D.D


Nhưng, đó chỉ là bài trong chín năm chống Pháp. Riêng những bài hát xưa nhiều lắm. Nào là bài hát chúc nghề làm ruộng, nghề dệt, nghề mộc, nghề rèn, nghề buôn... Trong đó, nhiều bài hát hay đến mức dù đã hơn năm mươi năm nhưng ông vẫn còn nhớ một số đoạn, như bài chúc người trồng thuốc lá “Ngày xưa hái một nhắm bông hoa/ Tháng chín vãi ra/ Hột còn lút chút/ Tháng mười hết lụt/ Thuốc đã mọc lên/ Kêu trai đắp nền/ Nhổ ra mà cấy/ Thuốc xanh dẫy dẫy/ Thuốc xanh dầy dầy/ Ông trở đất này/ Kêu trai trồng thuốc/ Trồng thuốc trồng thuốc/ Kẻ thời đất cuốc/ Người lại đất cày/ Kẻ thời no may/ Người thời no rủi...”.
Đến hẹn lại lên, năm nào, đội sắc bùa cũng tập trung khoảng hai mươi tháng chạp để luyện tập, ôn bài cũ, học bài mới. Thế nhưng, trong quá trình biểu diễn, họ cũng không thể tránh được vài "tai nạn" nho nhỏ. Điển hình vào Tết năm 1938, đội của ông Lê Nhì được ông Hội Mẹo, người làng An Mỹ, mời đến hát. Bấy giờ, ông Hội Mẹo giàu có tiếng ở tổng Đức Thượng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Ổng không những đất ruộng nhiều mà còn có trâu bầy, nhà ngói. Đêm hội sắc bùa biểu diễn là đêm mồng hai Tết. Sau khi hát bài “Mở ngõ”, “Mở cửa”… đến phần hát chúc gia chủ, không hiểu sao đội lại hát bài “…Thợ rèn thợ rèn/ Nghề nghiệp đã quen/ Lưu truyền con cháu/ Rèn gươm rèn giáo/ Rèn mác rèn chàng / Của để ngàn trùng/ Rèn riều rèn rựa/ Nào ai khéo nữa/ Đánh cuốc đánh cưa...”.
Mới hát nửa chừng, ông Hội Mẹo bỗng đứng lên, cao giọng “Mời các ông ra cho!”. Cả hội kinh ngạc, nhao nhao hỏi “Ủa, làm răng ông lại đuổi tụi tui?Tụi tui có làm chi sai mô mà đuổi”. Ông Hội Mẹo “Nhà tui đâu phải mạt đến mức gia đình phải đi làm thợ rèn mà các ông chúc. Bộ các ông muốn tui làm thợ rèn hay răng ?”. Đến lúc này, đội sắc bùa mới hiểu ra, vội vàng xin lỗi và xin chuyển sang bài khác. Kỳ thực, ông Hội Mẹo bắt bẻ chủ yếu để hội rút kinh nghiệm chứ không hề có ác ý gì. Cho nên, ông giảng giải một hồi để anh em hiểu và bỏ qua lỗi, cho tiếp tục hát, bồi dưỡng đầy đủ.
Điều đáng tiếc là từ năm 1954, do ảnh hưởng của chiếu tranh, đội sắc bùa Chấn Sơn phải giải tán. Những người nằm trong đội hát sắc bùa mỗi người mỗi nơi. Sau ngày giải phóng, do cuộc sống khó khăn, không ai nghĩ đến chuyện lập lại đội hát sắc bùa. Hình thức sinh hoạt văn hoá văn nghệ dân gian khá sặc sắc này từng bước mai một dần.
Và, đã mấy chục năm qua, mỗi khi Tết đến, Xuân về, những người ở lớp tuổi lại nhớ đến hát sắc bùa xưa. Không khí sôi động trên các ngả đường làng, nơi đội sắc bùa đi qua như hiển hiện trong tâm trí họ: "Sắc bùa là sắc bùa âu/ Mong cho năm mới ăn xôi với chè/ Sắc bùa là sắc bùa hoè/ Mong cho năm mới ăn chè với xôi!". Nó trở thành những kỷ niệm không thể nào quên.


[1] Theo ông Lê Nhì, sinh năm 1923, làng Chấn Sơn, xã Đại Hưng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, kể.

Saturday, May 12, 2012

NGƯỜI HOA Ở TRÀ MY XƯA


Do đặc điểm về địa lý, lịch sử, Hoa kiều đến Việt Nam từ rất lâu đời. Còn ở Quảng Nam, họ tập trung đông ở đô thị cổ Hội An. Thế nhưng, Hoa kiều không chỉ tập trung ở Hội An mà còn toả đi nhiều nơi khác, kể cả mảnh đất xa xôi, ngay cả huyện Trà My xưa. Có thể nói, sau Hội An, Tiên Phước, Tam Kỳ thì Trà My là địa phương thu hút khá đông Hoa kiều lập nghiệp. Họ đến đây sinh sống bằng nhiều nghề,chủ yếu là những nghề “ruột” từ bốc thuốc Bắc chữa bệnh  đến mở hiệu tạp hoá, bán những đồ dùng cần thiết hàng ngày cho cư dân địa phương và đặc biệt nhất là kinh doanh lâm thổ sản...  

Hồi nửa đầu thế kỷ XX trở về trước, Trà My, nay chia ra làm hai huyện là Bắc Trà My và Nam Trà My, là mảnh đất có thể nói được liệt vào nơi “rừng thiêng nước độc”. Thị trấn Trà My tương đối đông đúc ngày nay trước kia nhà cửa chỉ lưa thưa, lẫn khuất sau những ngọn đồi, những đồi cây. Để cai trị vùng đất hẻo lánh này, thực dân Pháp có xây dựng một đồn gọi là đồn Trà My, có cả lính Tây lẫn lính người Việt.
Người Hoa ở Việt Nam. Ảnh tư liệu.

Tuy xa xôi, hiểm trở nhưng Trà My có sức thu hút Hoa kiều là do đây là địa phương có nguồn đặc sản quý hiếm. Đó là quế. Vỏ quế là mặt hàng xuất khẩu đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn. Thế cho nên, bấy giờ có đến vài hiệu buôn Hoa kiều. Lớn nhất là hiệu Phước Ký rồi đến Hồng An, Thoại An, Phước Hưng... Dĩ nhiên, mặt hàng buôn bán chính và có khả năng thu lợi nhiều nhất của nhưng hiệu buôn này là quế!
Cũng như người Hoa ở nhiều địa phương khác, người Hoa ở Trà My không trực tiếp mua quế mà thông qua “các lái”[1] người Việt sinh sống tại Trà My để làm đại lý thu mua. Hằng năm, cứ đến mùa quế, khung cảnh núi rừng Trà My lại nhộn nhịp khác thường. Điểm khởi đầu là đồng bào các dân tộc vùng trung du và vùng cao của huyện Trà My tìm các lái người Việt để tạm ứng trước đồ dùng cần thiết trong cuộc sống hàng ngày như mắm, muối, vải, nồi đồng, mâm đồng... Sau đó, khi có quế, các lái người Việt, cũng không đông lắm, độ hai ba chục người, lên tận các bản để lấy quế.
Theo tục lệ, họ không vào nhà dân mà dựng tạm trại nhỏ phía ngoài rìa làng để ăn ở trong một hai tháng theo theo thời gian ghi trong giấy phép do người Pháp ở đồn Trà My cấp. Đồng bào đem quế về bỏ ở trại của người Việt nào mà họ đã ứng trước đồ dùng. Khi thấy đủ số lượng hoặc thấy quế quá nhiều, các lái người Việt mới thuê người địa phương gùi xuống để ở nhà họ tại thị trấn Trà My. Công gùi tính riêng, cũng được trả bằng hiện vật. Việc đổi quế lấy đồ dùng giữa đồng bào các dân tộc miền núi với các lái người Kinh cứ diễn ra quanh năm, dai dẳng từ mùa này sang mùa khác, tạo thành mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ.
Các hiệu người Hoa mua lại quế của các lái người Việt. Quế lúc này vẫn còn là quế tươi. Do đó, họ phải thuê thợ gia công, uốn quế. Mỗi hiệu, tuỳ theo số lượng quế ít nhiều mà thuê thợ. Có thể đôi ba người nhưng cũng có thể vài ba chục người. Thợ uốn quế chia làm hai loại. Loại làm tháng chiếm đa số, làm hết tháng này sang tháng khác, khi nào hết quế thì thôi.
Loại làm khoán tình theo số lượng quế đã uốn mà hưởng tiền công. Thời ấy, quế uốn nhỏ hơn bây giờ. Dụng cụ uốn đơn giản chỉ ba thanh gỗ nhỏ gác dọc và tám thanh tre gác ngang. Mỗi lần phơi quế là mỗi lần uốn. Uốn thế nào để thân vỏ quế tạo thành hình số 3. Thường thì quế nhỏ uốn bốn lần, quế lớn phải năm, sáu lần. Và, cứ 100 miếng quế làm thành một kẹp.
Chợ Hàn Đà Nẵng hồi đầu thế kỷ XX. Ảnh tư liệu

Sau khi uốn xong, các hiệu buôn người Hoa như Thuận An, Hồng An, Phước Hưng...mang trực tiếp đi Hồng Kông bán. Còn quế xô, các hãng Hồng Kông có chi nhánh ở Hội An, Đà Nẵng thu mua và chở đi. Nguồn cung cấp qiế xô là các lái buôn người Việt ở Trà My. Riêng hiệu Phước Ký cũng có kinh doanh quế xô. Được bao nhiêu, họ đều bán lại cho đại diện các hãng Hồng Kông.
Ngoài kinh doanh quế, mặt hàng chiến lược ở Trà My, Hoa kiều còn làm nhiều nghề khác như bốc thuốc Bắc chữa bệnh, bán các mặt hàng thiết yếu như mắm muối, các loại lương thực, thực phẩm... Có thể nói, đây là những sản phẩm họ buôn bán quanh năm, mùa mưa cũng như mùa nắng.
Nhìn chung, trong kinh doanh, cũng như Hoa kiều ở các nơi khác, Hoa kiều ở Trà My luôn biết cách tạo “thương hiệu”, “uy tín” cho mình. Cụ thể, trong quá trình kinh doanh, buôn bán, bên cạnh sự khôn ngoan,  họ rất coi trọng chữ tín. Không bao giờ họ nuốt lời hứa với bất cứ ai. Và, đã hứa, họ làm cho bằng được. Làm ăn với Hoa Kiều thường thì Tết nhứt hay lễ lạc quan trọng nào đó, họ hay có quà biếu. Tuỳ theo độ đậm nhạt trong quan hệ buôn bán mà món quà “nặng” hay “nhẹ”. Đây là “nghệ thuật” giữ bạn hàng của họ. Thật ra, chút quà ấy chẳng thấm vào đâu so với món lợi họ thu cả năm trời nhưng rõ ràng, họ đã biết cách đánh vào tâm lý để bảo đảm sang năm mới, công việc kinh doanh của họ sẽ có nhiều cơ hội thăng tiến hơn[2]. 




[1] Theo lời kể của ông Trịnh Hiếu An, sinh năm 1916, ở thị trấn Trà My, huyện Trà My, nay huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam
[2] Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Khương, sinh năm 1905, ở thị trấn Trà My, huyện Trà My, nay huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam

Wednesday, May 9, 2012

TẬP SÁCH "CHUYỆN XƯA ĐẤT QUẢNG" SẮP RA MẮT BẠN ĐỌC


                                                                                                                                   "Dời chợ dời chợ
      Lời nói nên nợ
      Lở chợ phải dời..."
Tương truyền, hồi cuối thế kỷ XIX, ở làng Thu Bồn, nay là thuộc xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, có cha con ông Phạm Tự Điện chuyên đi buôn vải. Quanh năm suốt tháng, họ cứ gánh vải đi khắp nơi, từ Duy Xuyên, qua Đại Lộc đến Quế Sơn... để bán. Bấy giờ, do người ít, đường vắng nên bọn cướp thường tổ chức trấn lột. Nhiều phen bị mất vải, mất hồn, suýt mất cả mạng, ông Phạm Tự Điện kinh hãi, thấy gánh vải đi bán quá bất tiện, khó đối phó với những hiểm nguy trên đường, bèn nghĩ cách xin lý trưởng cho phép lập quán bán vải ngay ở đuôi làng. Do là dân buôn vải chuyên nghiệp, quen biết nhiều nên chẳng bao lâu sau người trong làng, rồi ngoài làng đến chỗ ông mua vải khá đông. Thấy vậy, một số bà con kẻ bán thêm cái này, người bán thêm món kia, đông dần lên thành ra chợ..."

Đó là một đoạn trích trong tập sách "Chuyện xưa đất Quảng" sắp ra mắt bạn đọc. Đây là tập sách được tác giả điền dã, ghi chép những mẩu chuyện nho nhỏ về làng quê, từ chuyện lập chợ đến chuyện Dinh bà Phường Rạnh, chuyện săn cọp, chuyện về một số nhân vật như huyền thoại... Có thể nói, là truyện kể mang tình chất truyện kể dân gian nên có thể tam sao thất bổn. Âu, đó cũng là lẽ thường tình. Mục đích của tác giả là cố gắng vẽ lại, hình dung lại một phần nhỏ nào đó cuộc sống tinh thần, tâm linh... của người Quảng xưa.
Được như vậy, đã quý hóa lắm rồi!
PHẠM HỮU ĐĂNG ĐẠT