Friday, July 29, 2011

NÓI LÁI Ở... QUẢNG NAM!

Trong giao lưu, sinh hoạt thường ngày, người Quảng Nam hay nói lái. Không chỉ vậy, nói lái còn đi vào dòng văn học dân gian với một số câu đố, giai thoại thú vị được lưu truyền qua nhiều đời!

Ở làng Dùi Chiêng, nay thuộc xã Quế Phước, huyện Quế Sơn, hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có một nhân vật nổi tiếng về bắt cọp, bẫy cọp. Đó là ông Bá Doãn, tên thật là ông Phạm Doãn. Danh tiếng của ông không chỉ bó hẹp ở địa bàn Quế Sơn mà còn lan rộng ở nhiều huyện khác, nhất là những huyện miền núi, nhiều thú dữ như Đại Lộc, Tiên Phước... Ông là người giỏi nấu cao hổ cốt và làm giàu nhờ "ngón nghề" độc đáo này. Cứ ai nhờ bẫy cọp, phần công của ông chỉ là bộ xương. Bấy giờ, cọp rất nhiều nên nhà ông luôn luôn có sẵn cao hổ cốt thứ thiệt. Ông giàu lên nhanh chóng. Tuy giàu, nhưng ông nổi tiếng là người trượng nghĩa nên được dân làng yêu mến. Cũng theo tương truyền, ông giàu đến mức đủ sức xây một lúc bốn nhà lầu cho chính ông và ba đứa con trai ở ngay vùng núi heo hút này. Khi ông chết đi, nhà thơ trào phúng Tú Quỳ, danh sĩ Quảng Nam, có làm bài thơ phúng điếu ông, rằng "Ông về chín suối thôi bắt cọp/ Bỏ lại ba con bốn cái lầu". Rõ ràng, bài thơ tả thật. Thế nhưng, ông vận dụng cách nói lái rất tài tình ở ba từ cuối, tức "bốn cái lầu", khiến người Quảng ai đọc bất giác phải bật cười.

Hòn Đền, tức Núi Chúa Quế Sơn. Ảnh Đ.Đ

Trong dòng văn học dân gian thể loại hát hò khoan đối đáp ở Quảng Nam cũng để lại một số câu chuyện nói lái khá độc đáo. Chuyện kể rằng hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tại xã Quế Lộc, có một cô gái khá đẹp, giỏi hát hò khoan tên là cô Sính. Bữa nọ, cô đi ngang qua làng kia, gặp đám thanh niên. Vừa thấy cô, một thanh niên liền cất cao giọng:“Hò… ớ…ơ/ Mình hết gạo ba bốn bữa ni/ Mình ních lấy sắn có chuyện chi không hỡi nàng?”. Nghe câu hát tưởng như bình thường này, cô gái giật mình, mặt đỏ rần lên. Ba chữ “ních lấy sắn” quả thật làm cô gái ngượng hết chỗ nói. Rõ ràng, người thanh niên tỏ ra rất thông minh khi khéo léo vận dụng cách nói lái của người Quảng để “bắt bí”. Tuy nhiên, vốn là người thạo hát hò khoan và cũng nhiều lần “thoát hiểm”, cô gái nghĩ ngợi trong giây lát rồi cất giọng: “Hò… ớ… ơ/ Thuốc Nam, thuốc Bắc gia vị tía tô/ Chàng lở ních lấy sắn có cứt chó khô thậm tài”. Nghe câu hát đối lại của cô gái, chàng trai cứng họng, không biết hát tiếp ra sao, đành lủi nhanh. Mà hát tiếp sao được khi anh ta bị bà “chửi” khéo là nếu đã lở “ních lấy sắn” thì phải ăn “cứt” chó khô mới… hết bệnh. Quả vỏ quýt dày có móng tay nhọn!
Còn tại làng Thu Bồn, xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, khoảng năm 1940, xảy ra một vụ kiện nổi đình nổi đám. Số là năm ấy, làng tổ chức đo lại diện tích đất. Do làng tham, các vị chức sắc bấy giờ muốn "ăn" bớt đất của dân nên cứ mỗi hộ đo thiếu 4 thước. Dân phẫn nộ, đồng lòng đứng lên đấu tranh, nhất tề... bỏ cấy vụ lúa năm ấy rồi cử người làm đơn lên kiện quan tổng, rồi quan huyện. Trong đó, người đứng đơn đại diện cho dân kiện là ông Võ Tùng. Thấy tình hình quá căng thẳng,  tri huyện Duy Xuyên mới đưa ông Thất Hoanh xuống đo lại ruộng đất. Ông này chặt một cây tre thật thẳng, lấy thước ngoài Huế làm chuẩn, rồi cứ thế mà đo. Lý trưởng và cả bà con thấy ông Thất Hoanh làm đúng quá, không ai có ý kiến gì. Đặc biệt, nếu người lý trưởng đo dân mất 4 tất, lần này, ông Thất Hoanh đo, dân lại lời ra đúng... 4 tất!

Thượng nguồn sông Thu Bồn. Ảnh Đ.Đ

Nhân vụ kiện này, ông Phạm Khôi, một người hay chữ trong làng đặt bài vè rằng  "Chuyên tùng, dám kiện, quấy ơi anh?/ Thức cóc giá cao ruộng bỏ đành / Ưng cắt năm sào liền một bọc/ Giựt quằn bốn thước xé đồng canh/ Đề mô sổ cấp làm cao lý/ Mực đặc đồng dân ký thuận tình". Bài vè này, ông vận dụng toàn cách nói lái "Truyền thống"  của dân Quảng Nam. Câu đầu, "Chuyên tùng, dám kiện, quấy ơi anh?". Ở đây  ý nói "Chuyên tùng" tức "Chung tiền" để đi kiện và đi kiện thì chẳng phải chuyện sai quấy gì hết. "Thức cóc giá cao ruộng bỏ đành".  "Thức cóc" tức "Thóc cức", ông muốn ám chỉ bọn cường hào làm bậy, làm những chuyện thối tha, khiến dân làng đành phải bỏ cả ruộng đất, không thể cày cấy được. Do đó, ông chửi khéo "Ưng cắt năm sào liền một bọc". "Ưng cắt"  ở đây rõ ràng ông ám chỉ bọn làm chuyện xấu ấy đều đáng "ăn cức". Đến câu "Giựt quằn bốn thước xé đồng canh" nghĩa "Giựt quằn" tức "Giặt quần", còn bốn thước xé đồng canh tức mấy ổng lấy bốn thước để mà chia nhau. "Đề mô sổ cấp làm cao lý"  tức "Đề mô" nói ngược lại là "Đồ mê", tiếng chửi khéo bọn tham lam, ngu muội mới làm chuyện bậy bạ như thế. "Mực đặc đồng dân ký thuận tình" ở đây "Mực đặc" tức "mặt đực" chỉ bọn người làm việc trái đạo lý này là những người không biết phải trái, cứ thấy lợi là làm. Thế cho nên, dân phải đồng lòng mà ký đơn đi kiện!

Tuesday, July 26, 2011

CHUYỆN MỘT NGÔI ĐỀN...

Tại thôn An Thọ, xã Tam An, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam, có di tích khá đặc biệt. Đó là một ngôi đền nằm lọt thỏm giữa những rặng tre râm mát, hướng ra đường quốc lộ số 1. Đền không lớn, bề ngang khoảng ba mét, rộng khoảng hơn hai mét. Bên trong đền có bức trướng bằng gỗ, được sơn màu đỏ, nổi lên dòng chữ Hán màu gụ sắc sảo "Tướng quân tự", được làm từ năm "Tự Đức nhị thập tam niên, cát nguyệt nhật tạo", nghĩa là năm Tự Đức thứ 23, tức năm 1870. Như vậy, có thể ước đoán ngôi đền ra đời muộn nhất cũng vào nửa cuối thế kỷ XIX, cách nay gần 150 năm trong lịch sử!

Đền Tướng quân từ. Ảnh Đ.Đ

Như tên gọi, “Tướng quân tự” là nơi thờ một vị tướng có công với nước, với  dân. Theo lời các bậc cao niên của thôn An Thọ, tương truyền, vị tướng này họ Nhan, tên Văn Sùng, không biết là tướng của vua nào, cũng không rõ sống cụ thể vào thời nào. Tuy nhiên, xung quanh ngôi đền có giai thoại khá lý thú và hấp dẫn về vị tướng này. Giai thoại thuật lại rằng, sau khi thắng trận ở biên ải phía Nam, trên đường trở về, khi đến làng An Thọ, không biết vì lý do gì, vị tướng quân nọ đột nhiên lâm trọng bệnh và qua đời ở đây. Để tưởng nhớ công đức Ngài, dân làng bèn lập đền thờ. Là vùng quê nghèo nên ngôi đền ban đầu cũng chỉ là ngôi nhà tranh tre sơ sài nhưng cũng không kém phần trang nghiêm, trân trọng.
Từ khi có ngôi đền mang tên “Tướng quân tự”, hàng ngày, ngoài việc hương khói cho vị tướng quân, cứ đến ngày mồng năm tháng năm âm lịch hàng năm, gọi là ngày tết Đoan Ngọ, dân làng tổ chức cúng tế. Lễ vật cũng đơn giản, tuỳ vào khả năng kinh tế của từng gia đình. Nhiều thì xôi gà, ít thì nải chuối, hương đèn… Việc cúng tế diễn ra từ năm này sang năm khác. Cũng theo tương truyền, cạnh ngôi đền còn có mả voi. Nguyên, khi vị tướng quân chết, con voi nhiều năm theo ngài chinh chiến, trải qua không biết bao nhiêu trận đánh lẫy lừng, cũng chết theo. Voi cũng được chôn, gọi là mả voi. Theo các cụ già kể lại, mả voi xưa lớn lắm, to bằng cả cái nhà. Sau giải phóng vẫn còn. Đến thập niên 1980, người ta lấn dần để trồng cà, ớt…Rồi khi cải tạo đồng ruộng, người ta ủi luôn. Cho nên, bây giờ di tích mả voi coi như không còn nữa. Nhưng ngôi đền vẫn tồn tại với thời gian.
Bên trong đền. Ảnh Đ.Đ

Chuyện đền thờ “Tướng quân tự” nguyên là đền nhỏ bằng tranh tre biến thành đền có mái bằng gỗ mít khá vững chắc gắn lại liền với truyền thuyết khá ly kỳ. Người ta kể lại rằng  dưới thời Pháp thuộc, ngày nọ, ở An Thọ xuất hiện một phụ nữ đứng tuổi dẫn một người con đi trốn lính. Cả hai vào làng xin tá túc. Một bô lão thương tình, mới bảo người mẹ mua ít hương đèn vào “Tướng quân từ” khấn vái xin ở nhờ. Tiếng là ở nhờ nhưng chỉ ở một bên ngôi đền. Người mẹ nghe theo. Lúc khấn vái, bà buột miệng hứa nếu "Ngài có linh thiêng, xin hãy phù hộ hai mẹ con tai qua nạn khỏi. Nếu được, sau khi về, con nguyện sẽ không quên công ơn". Đặc biệt, trong đó, bà xin ủng hộ một giàn mái bằng gỗ mít. Ở vài ngày, một đêm, đang trong giấc ngủ, bà nghe có tiếng ai đó nói vào tai mình “Thôi, mẹ con lo về đi. Chuyện bắt bớ qua rồi..”. Bà giật mình tỉnh giấc. Giữa đêm khuya vắng lặng, chỉ có bà và con. Có lẽ đó là giấc mơ. Và, giấc mơ ấy, bà nghĩ, là vị tướng quân nọ, thương hoàn cảnh bà, nghe bà khấn vái, đã hiện về, mách bảo.
Thế cho nên, sáng hôm sau, hai mẹ con bà thu dọn đồ đạc, vội vã về lại quê nhà, tại tỉnh Quảng Ngãi. Nhưng, lời hứa trước ngôi đền bà không bao giờ quên. Do đó, chỉ một thời gian ngắn sau, khi hoàn cảnh và điều kiện tài chính cho phép, bà lùng mua một giàn mái bằng gỗ mít. Tiếp đến, bà lại thuê người vận chuyển ra An Thọ, “hợp đồng” người xây dựng lại ngôi đền. Vậy là, từ tranh tre đơn sơ, giản dị, một ngôi đền mới bằng gỗ mít, tương đối chắc chắn hơn đã thành hình, tạo điều kiện cho bà con tiếp tục hương khói, tế lễ vào ngày Tết Đoan Ngọ. Tuy nhiên, đến năm 1964, trận lụt khủng khiếp năm Thìn đã tàn phá nặng nề. Ngôi đền tan hoang. Lần này, dân làng tổ chức vận động, quên góp tiền của, công sức để trùng tu. Và, đó là cũng lần trùng tu cuối cùng cho đến nay.
Và, trải qua thời gian, sự tàn phá của thiên nhiên khắc nghiệt, nhưng ngôi đền nhỏ bé, khiêm tốn gần như vẫn giữ được những đường nét kiến trúc cổ, với mái lợp ngói âm dương cổ kính, ẩn mình dưới những rặng tre xanh mát, hướng ra cánh đồng làng… Hơn thế nữa,“Tướng quân tự” không chỉ là một ngôi đền mà còn là một di tích văn hóa, di tích lịch sử, mang  ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Việc lập đền, thờ phụng một vị tướng quân vì nước quên thân rõ ràng đã thể hiện đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp của người dân xứ Quảng.

Friday, July 22, 2011

NGƯỜI HOA Ở TRÀ MY XƯA

Do đặc điểm về địa lý, lịch sử, Hoa kiều đến Việt Nam từ rất lâu đời. Còn ở Quảng Nam, họ tập trung đông ở đô thị cổ Hội An. Thế nhưng, Hoa kiều không chỉ tập trung ở Hội An mà còn toả đi nhiều nơi khác, kể cả mảnh đất xa xôi, ngay cả huyện Trà My xưa. Có thể nói, sau Hội An, Tiên Phước, Tam Kỳ thì Trà My là địa phương thu hút khá đông Hoa kiều lập nghiệp. Họ đến đây sinh sống bằng nhiều nghề, chủ yếu là những nghề “ruột” từ bốc thuốc Bắc chữa bệnh  đến mở hiệu tạp hoá, bán những đồ dùng cần thiết hàng ngày cho cư dân địa phương và đặc biệt nhất là kinh doanh lâm thổ sản...  

Hồi nửa đầu thế kỷ XX trở về trước, Trà My, nay chia ra làm hai huyện là Bắc Trà My và Nam Trà My, là mảnh đất có thể nói được liệt vào nơi “rừng thiêng nước độc”. Thị trấn Trà My tương đối đông đúc ngày nay trước kia nhà cửa chỉ lưa thưa, lẫn khuất sau những ngọn đồi, những đồi cây. Để cai trị vùng đất hẻo lánh này, thực dân Pháp có xây dựng một đồn gọi là đồn Trà My, có cả lính Tây lẫn lính người Việt. Tuy xa xôi, hiểm trở nhưng Trà My có sức thu hút Hoa kiều là do đây là địa phương có nguồn đặc sản quý hiếm. Đó là quế. Vỏ quế là mặt hàng xuất khẩu đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn. Thế cho nên, bấy giờ có đến vài hiệu buôn Hoa kiều. Lớn nhất là hiệu Phước Ký rồi đến Hồng An, Thoại An, Phước Hưng... Dĩ nhiên, mặt hàng buôn bán chính và có khả năng thu lợi nhiều nhất của nhưng hiệu buôn này là quế!

Nguoi Hoa o Cho lon xwua. Anh tu lieu

Cũng như người Hoa ở nhiều địa phương khác, người Hoa ở Trà My không trực tiếp mua quế mà thông qua “các lái”[1] người Việt sinh sống tại Trà My để làm đại lý thu mua. Hằng năm, cứ đến mùa quế, khung cảnh núi rừng Trà My lại nhộn nhịp khác thường. Điểm khởi đầu là đồng bào các dân tộc vùng trung du và vùng cao của huyện Trà My tìm các lái người Việt để tạm ứng trước đồ dùng cần thiết trong cuộc sống hàng ngày như mắm, muối, vải, nồi đồng, mâm đồng... Sau đó, khi có quế, các lái người Việt, cũng không đông lắm, độ hai ba chục người, lên tận các bản để lấy quế.
Theo tục lệ, họ không vào nhà dân mà dựng tạm trại nhỏ phía ngoài rìa làng để ăn ở trong một hai tháng theo theo thời gian ghi trong giấy phép do người Pháp ở đồn Trà My cấp. Đồng bào đem quế về bỏ ở trại của người Việt nào mà họ đã ứng trước đồ dùng. Khi thấy đủ số lượng hoặc thấy quế quá nhiều, các lái người Việt mới thuê người địa phương gùi xuống để ở nhà họ tại thị trấn Trà My. Công gùi tính riêng, cũng được trả bằng hiện vật. Việc đổi quế lấy đồ dùng giữa đồng bào các dân tộc miền núi với các lái người Kinh cứ diễn ra quanh năm, dai dẳng từ mùa này sang mùa khác, tạo thành mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ.
Các hiệu người Hoa mua lại quế của các lái người Việt. Quế lúc này vẫn còn là quế tươi. Do đó, họ phải thuê thợ gia công, uốn quế. Mỗi hiệu, tuỳ theo số lượng quế ít nhiều mà thuê thợ. Có thể đôi ba người nhưng cũng có thể vài ba chục người. Thợ uốn quế chia làm hai loại. Loại làm tháng chiếm đa số, làm hết tháng này sang tháng khác, khi nào hết quế thì thôi. Loại làm khoán tình theo số lượng quế đã uốn mà hưởng tiền công. Thời ấy, quế uốn nhỏ hơn bây giờ. Dụng cụ uốn đơn giản chỉ ba thanh gỗ nhỏ gác dọc và tám thanh tre gác ngang. Mỗi lần phơi quế là mỗi lần uốn. Uốn thế nào để thân vỏ quế tạo thành hình số 3. Thường thì quế nhỏ uốn bốn lần, quế lớn phải năm, sáu lần. Và, cứ 100 miếng quế làm thành một kẹp. Sau khi uốn xong, các hiệu buôn người Hoa như Thuận An, Hồng An, Phước Hưng...mang trực tiếp đi Hồng Kông bán. Còn quế xô, các hãng Hồng Kông có chi nhánh ở Hội An, Đà Nẵng thu mua và chở đi. Nguồn cung cấp qiế xô là các lái buôn người Việt ở Trà My. Riêng hiệu Phước Ký cũng có kinh doanh quế xô. Được bao nhiêu, họ đều bán lại cho đại diện các hãng Hồng Kông.

Cho Da Nang. Anh tu lieu

Ngoài kinh doanh quế, mặt hàng chiến lược ở Trà My, Hoa kiều còn làm nhiều nghề khác như bốc thuốc Bắc chữa bệnh, bán các mặt hàng thiết yếu như mắm muối, các loại lương thực, thực phẩm... Có thể nói, đây là những sản phẩm họ buôn bán quanh năm, mùa mưa cũng như mùa nắng. Nhìn chung, trong kinh doanh, cũng như Hoa kiều ở các nơi khác, Hoa kiều ở Trà My luôn biết cách tạo “thương hiệu”, “uy tín” cho mình. Cụ thể, trong quá trình kinh doanh, buôn bán, bên cạnh sự khôn ngoan,  họ rất coi trọng chữ tín. Không bao giờ họ nuốt lời hứa với bất cứ ai. Và, đã hứa, họ làm cho bằng được. Làm ăn với Hoa Kiều thường thì Tết nhứt hay lễ lạc quan trọng nào đó, họ hay có quà biếu. Tuỳ theo độ đậm nhạt trong quan hệ buôn bán mà món quà “nặng” hay “nhẹ”. Đây là “nghệ thuật” giữ bạn hàng của họ. Thật ra, chút quà ấy chẳng thấm vào đâu so với món lợi họ thu cả năm trời nhưng rõ ràng, họ đã biết cách đánh vào tâm lý để bảo đảm sang năm mới, công việc kinh doanh của họ sẽ có nhiều cơ hội thăng tiến hơn[2]. 
          Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ lâu dài và ác liệt, do nhiều lý do khác nhau, người Hoa lần lượt ra Đà Nẵng, đến Hội An hay vào tận Sài Gòn sinh sống. Đó là nguyên nhân khiến sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng không còn bóng dáng thương nhân Hoa Kiều nói riêng hay người Hoa nói chung trên đất Trà My.
                                                          


[1] Theo lời kể của ông Trịnh Hiếu An, sinh năm 1916, ở thị trấn Trà My, huyện Trà My, nay huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam
[2] Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Khương, sinh năm 1905, ở thị trấn Trà My, huyện Trà My, nay huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam

Monday, July 18, 2011

LẬT NGƯỢC THẾ CỜ...

Hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở làng Cổ Mân, tổng An Lưu, huyện Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc phường Hoà Quý, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, có xảy ra vụ kiện về đất đai khá hi hữu. Nguyên hai làng Cổ Mân và Tùng Lâm cách nhau một con sông gọi là sông Cái. Do lũ lụt hàng năm, đất bên làng Tùng Lâm bị xói lở. Chuyện đất ven sông bên lở bên bồi là chuyện thường. Bên lở, làng Tùng Lâm, thấy cứ mỗi năm mất thêm tí đất trong khi bên kia, làng Cổ Mân, đất cứ bồi mãi, nên mới sinh chuyện.
Xưa có câu “Công sản công trưng, tư sản tư trưng”, nghĩa là cái gì thuộc sở hữu của làng, làng phải thu về cho làng. Cho nên, đất làng Tùng Lâm xói lở, lại bồi phía làng Cổ Mân. Do vậy, đất bồi của làng Cổ Mân đích thị là đất của làng Tùng Lâm. Đó là lý lẽ của dân làng Tùng Lâm khi đâm đơn đi kiện làng Cổ Mân. Thật ra, nói làng Tùng Lâm kiện nhưng thật ra là đám thân hào, nhân sĩ ở làng mới là những người khởi xướng vụ kiện tụng này. Nguyên Tùng Lâm bấy giờ có mấy người như ông Thông Chương, ông Phó Liễn làm cho Pháp. Họ có thế lực. Còn làng Cổ Mân thân cô thế cô. Người trong làng chẳng có ai làm quan cho Nam triều hay cho Pháp. Vậy nên, kiện đến đâu, dù là tổng, huyện hay tỉnh, thậm chí ra đến bộ, Cổ Mân cũng thua.
Vua Khai Dinh

Đã thua, Cổ Mân phải giao đất lại cho Tùng Lâm. Nhưng, dân làng Cổ Mân không  ai chịu, tìm mọi cách “phá đám”. Cứ đến ngày quan trên cử người đến đo đạc đất, thể nào cũng sinh chuyện. Làng cứ để đo... cả ngày. Rồi chờ đến xế chiều, thừa lúc người ghi chép sơ hở, dân làng Cổ Mân mới chạy ra, giựt lấy cuốn sổ, vọt chạy. Xung quanh chuyện giựt sổ đo đạc, lại có câu chuyện kể khá lý thú rằng bấy giờ có ông Kiều Bạn người làng Cổ Mân, làm rễ ông Tri bộ làng Tùng Lâm. Chính ông này có nhiệm vụ giữ sổ bộ làng và cũng là người đi ghi chép vào cuốn sổ nói trên. Năm ấy, sau khi được phân công “giựt sổ”, ông Kiều Bạn chờ cho cha vợ đo đạc xong, mới lại gần, bảo “Cha hút thuốc, để con mồi lửa cho!”. Ông trị bộ Tùng Lam tưởng con rễ mồi lửa như mọi khi, chẳng nghi ngờ chi. Thế là ông con rễ vừa mồi xong, liền giựt lấy cuốn sổ. Ông tri bộ la lên “Giảng, răng mi giựt sổ tao? Giảng? Mi làm chi lạ rứa? Đưa sổ đây!”. Ông con rễ vừa thưa lại vừa bỏ chạy “Phần cha là phần cha, phần con là phần con. Con là người Cổ Mân, con phải giành quyền lợi lại cho Cổ Mân!”. Ông gia kêu trời, nhưng cũng đành chịu.
Dĩ nhiên, chuyện phân công chính con rễ đi giựt sổ cũng diễn ra một lần. Lần thứ hai, không thể áp dụng vì ông gia đã cảnh giác. Cho nên, Cổ Mân phải bố trí những người khác, công phu và tỉ mỉ hơn. Thường thường, khi tiến hành đo đạc, chính quyền đương thời có cử mấy người lính đi bảo vệ. Nhưng, bảo vệ làm sao được khi dân làng Cổ Mân quyết phá. Ngay trước khi chính quyền tổ chức đo đạc, lý trưởng đã huy động đàn bà chuẩn bị một loại cây gọi là cây găng, loại cây có mắc, cất giấu ngay bờ sông, phòng khi hữu sự. Theo hiệu lệnh đã thông báo trước, ngay sau khi người được phân công giựt cuốn sổ đo đạc đã giựt xong, làng đánh trống. Tức thì, đàn bà núp sẵn ở đâu đó tất cả đều chạy ùa ra, đến ngay chỗ cất giấu cây, gậy, thủ trong tay, rồi chạy xuống đuổi viên tri bộ Tùng Lâm. Trong đó, người hăng nhất là bà giáo Thận. Thấy khí thế bừng bừng của dân làng, tri bộ, rồi cả quan lẫn lính Tây cũng hoảng sợ, vội vàng xuống tàu đã đậu sẵn mà chạy.
Và, năm nào cũng như năm nào, sự việc cứ lặp đi lặp lại, qua hai đời lý trưởng làng Cổ Mân là ông Cửu Toản và ông Kiều Đạo. Thấy chuyện đo đạc vừa phức tạp, tốn nhiều công sức những lần nào cũng biến thành công cốc, làng Tùng Lâm mới thôi, không tiến hành đo đạc nữa mà chuyển qua cắm mốc cho... chắc ăn. Gì thì gì chứ nếu Tùng Lâm cắm mốc thì Cổ Mân thua chắc. Làng mới tổ chức họp bàn cách đối phó. Trong lúc mọi người bóp trán suy nghĩ, bỗng có ai đó nhắc đến bà Hoài[1], người tộc Phạm, là vợ thứ của vua Khải Định, cha vua Bảo Đại. Tương truyền, thuở hàn vi, do gia cảnh khó khăn, bà mới ra Huế bán chè cho khách qua đường. Một lần, vua Khải Định ngang qua, thấy bà đẹp quá, bèn lấy làm thiếp. Thế là làng mới cử người ra tận Huế, tìm mọi cách gặp cho bằng được bà Hoài, trình bày đầu đuôi vụ kiện, nhờ giúp đỡ. Bà Hoài nhận lời ngay. Thông qua bà, vua Bảo Đại bèn phê vào lá đơn. Có lời phê của vua, con dấu đỏ chót, vụ kiện coi như chấm dứt. Làng Cổ Mân đã lật ngược thế cờ, từ thua trở thành thắng!



[1] Được biết, sau  cách mạng tháng tám năm 1945, bà Hoài, thiếp của vua Khải Định, có về sống ở Nam Ô. Ông Kiều Ký, sinh năm 1922, người kể lại câu chuyện, có ra thăm bà Hoài. Bà không có con.

Friday, July 15, 2011

BÔNG MIÊU HAY BỒNG MIÊU

                                        "Kể từ ngày Tây lại cửa Hàn

                     Đào sông Câu Nhí đắp đàng Bông Miêu" 

Đây là câu hát khá quen thuộc của người dân Quảng Nam, Đà Nẵng. Nó đánh dấu một sự kiện lịch sử khi thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XIX và tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa ở miền Trung nói riêng và cả nước ta nói chung. Nhưng, Bông Miêu hay Bồng Miêu ? Quảng Nam có địa danh Bông Miêu, thôn Bông Miêu, mỏ vàng Bông Miêu không ? Hay đó chỉ là sự nhầm lẫn từ địa danh Bồng Miêu ? Quả thật, vấn đề không đơn giản.

Một góc Bồng Miêu. Ảnh Đ.Đ

Trong nhiều tác phẩm, bài viết,  bài nghiên cứu, nhiều tác giả dùng "Bông Miêu" thay vì "Bồng Miêu”. Ông Nguyễn Văn Bổn trong "Văn học  dân gian  Quảng Nam - Đà Nẵng” do Sở Văn hoá Thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng xuất bản năm 1983, ở trang 54, khi dẫn câu hát nói trên cũng dùng danh xưng "Bông Miêu”. Trong bài viết "Đất Quảng quê tôi” đăng trong "Quảng Nam - Đà Nẵng xưa và nay” do Nhà Xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 1996, trang 219, học giả Nguyễn Văn Xuân cũng trích câu hát ấy với cụm từ "Bông Miêu" chứ không phải "Bồng Miêu”. Gần đây nhất, trong công trình nghiên cứu có nhan đề "Tìm hiểu con người Xứ Quảng” do nhà văn Nguyên Ngọc làm chủ biên, được Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Nam ấn hành năm 2004, trang 205, các tác giả có dẫn câu:
"Kể từ ngày Tây lại Cửa Hàn
 Đào sông Câu Nhí đắp đàng Bông Miêu”
  Loại trử lỗi do nhà in, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng hầu hết các tác giả đều dùng địa danh Bông Miêu. Không chỉ tài liệu tiếng Việt, một số tài liệu tiếng Pháp hiện lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II ở thành phố Hồ Chí Minh đa phần cũng sử dụng danh xưng "Bông Miêu” thay vì "Bồng Miêu”. Tất nhiên, tiếng Pháp là thứ tiếng hầu như không có dấu. Thế nhưng, trong nhiều trường hợp, khi viết về địa danh ở Việt Nam, cũng không ít tài liệu viết có dấu. Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi phát hiện ít ra có đến hai tài liệu thời Pháp dùng "Bồng Miêu” thay vì "Bông Miêu”. Đó là tài liệu có nhan đề là "Tableau Faisant connaitre le mouvement de la statistique minière dans la province de Quang Nam - au Juin 1919" có số ký hiệu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II là 1098 RSA/HC. Tại mục "Noms et domicile des explorateurs” (Tên và nơi ở của những nhà thăm dò) ghi "Compagnie minière de Bồng Miêu" (tức Công ty mỏ Bồng Miêu). Tài liệu thứ hai là "Lettre du Conseil Secret à M.le Résident Supérieur en Annam au sujet des décisions à prendre relativement aux mines à Quang Nam” (Tạm dịch "Thư của Hội đồng Cơ mật gửi ngài Khâm sứ Trung Kỳ về những quyết định liên quan đến mỏ ở Quảng Nam”) đề ngày 14 tháng 4 năm 1896 có số ký hiệu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II là RSA - 119 cũng viết rõ Bồng Miêu chứ không phải Bông Miêu

Dòng sông Vàng nổi tiếng ở Bồng Miêu. Ảnh Đ.Đ

Tuy nhiên, chứng cứ có sức thuyết phục nhất là những ghi chép ở tập sách "Đồng Khánh dư địa chí lược”. Trong tác phẩm "Từ điển di tích văn hoá Việt Nam” do ông Ngô Đức Thọ làm chủ biên, Nhà Xuất bản Văn Hoá xuất bản năm 2003, ở trang 111, có dẫn ra một ngôi miếu được nêu trong "Đồng Khánh dư địa chí lược" . Đó là "Bồng Miêu miếu”. Đặc biệt, các tác giả của tập sách này có viết lại Bồng Miêu miếu bằng chữ Hán. Đó là các chữ 芃苗 Chữ Bồng có bộ thảo ở trên bộ kỷ. Bên trong bộ kỷ có một nét ngang. Chữ Miêu có bộ thảo phía trên, dưới là bộ điền. Hai chữ 芃苗 chỉ có thể dịch sang tiếng Việt là Bồng Miêu, hoàn toàn không thể dịch là Bông Miêu. Từ cứ liệu ấy, chúng ta có thể khẳng định Quảng Nam chỉ có địa danh Bồng Miêu, mỏ vàng Bồng Miêu chứ không hề có địa danh Bông Miêu, mỏ vàng Bông Miêu. Hơn thế nữa, hiện vẫn còn một thôn gọi là thôn Bồng Miêu, nơi có mỏ vàng Bồng Miêu thuộc xã Tam Lãnh, huyện mới Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Như thế, câu hát đã trích đúng ra phải sửa lại là :

"Kể từ ngày Tây lại cửa Hàn

Đào sông Câu Nhí đắp đàng Bồng Miêu” 

Wednesday, July 13, 2011

XE GIÓ LỤC BẮC…

Đến Lục Bắc, thuộc địa bàn Lục châu Hà Dục xưa, nay thuộc địa bàn các xã Đại Lãnh, Đại Hưng… huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, du khách sẽ ngỡ ngàng, thích thú khi phát hiện hình ảnh tưởng đã lùi vào quá vãng. Đó là hình ảnh những chiếc xe gió, hay còn gọi là xe nước đưa nước từ khe lên ruộng. Và, mấy ai được biết, sự ra đời của xe gió Lục Bắc nói riêng và vùng Lục châu Hà Dục gắn liền với câu chuyện kể khá lý thú…
Thời trước, cũng như nhiều vùng khác ở Quảng Nam, người dân địa phương vùng Lục Châu Hà Dục, sống về nghề nông. Tuy nhiên, do chưa có công trình thuỷ lợi, họ chủ yếu nhờ nước trời, năng suất bấp bênh. Năm được mùa, mỗi sào chỉ mươi ang lúa. Năm mất, chỉ vài ba ang. Thế nên, đời sống người dân rất cơ cực. Trước thực trạng ấy, có thể nói, sự xuất hiện của xe gió, một loại xe hoàn toàn làm bằng thủ công, có khả năng đưa nước từ dưới sông, dưới suối lên đồng ruộng, là một cuộc “cách mạng” trong sản xuất nông nghiệp thời bấy giờ. Và, người có công đưa xe gió về Lục Bắc là ông Quách Đại Thụ[1]. Tương truyền, vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một lần ông đi chơi, tình cờ phát hiện ở vùng hạ lưu sông Vu Gia, bà con đã biết chế tạo xe gió. Thấy hay quá, ông mới lặn lội đến làng Thanh Đơn, nay thuộc xã Đại Cường, huyện Đại Lộc, rước ông Hứa Thiệu và ông Hương Lưỡng, về làng Hà Dục Tây, làm xe gió. Là thợ cả, ông Hứa Thiệu, ông Hương Lưỡng đứng ra nhận thầu, rồi kêu thợ, chủ yếu thanh niên trai tráng trong làng, những người có sức khoẻ, lên rừng đốn gỗ, chặt mây... Các ông vừa hướng dẫn, vừa trực tiếp làm xe gió. Đầu tiên, ông Quách Đại Thụ thuê họ làm xe gió lấy nước tưới ruộng của ông và ruộng của bà con gần đó. Ngay mùa đầu tiên, nhờ có xe gió, năng suất lúa tăng lên gấp hai, gấp ba lần so với trước.

Xe gió lục Bắc. Ảnh Đ.Đ

Thế là một đồn mười, mười dồn trăm, đến mùa sau, những hộ có khả năng, tiền của thi nhau làm xe gió. Thời kỳ cao điểm, vào những năm 1960 trở về trước, cả vùng Đại Lãnh có không dưới ba, bón chục xe gió, cả loại xe lớn đưa nước từ sông Vu Gia lên và cả xe nhỏ đưa nước từ sông con, rồi nước từ khe lên đồng ruộng. Xe gió đưa nước từ sông cái lên, loại to nhất có 8 bánh, thông thường 4 bánh, hay 3 bánh. Xe gió ở sông con chủ yếu 2 bánh. Xe gió đặt ở các khe, suối, đường kính nhỏ, chỉ một bánh. Xe gió khi làm xong, coi như nước “trường lưu”, tức lúc nào cũng có nước đổ vào đồng ruộng. Thợ cả, thợ phụ làm xong, nhận một cục tiền coi như... xong nhiệm vụ, hoàn tất hợp đồng. Công làm xe gió tính theo lúa. Xe nhỏ khoán vài chục ang. Xe lớn có khi khoán cả trăm ang. Bên cạnh lúa, còn có tiền mặt, ít nhiều tuỳ theo thoả thuận của hai bên.
Sau khi hoàn thành, chạy thử, đạt yêu cầu, chủ xe gió trả tiền theo hợp đồng rồi phải thuê hai người: một người giữ xe và người kia làm tri đề. Người gữ xe có nhiệm vụ hàng ngày phải chăm sóc xe. Mùa lụt lội, phải tính nếu lụt lớn, phải báo với chủ kêu thêm người tháo xe ra, đem cất vào chỗ cao. Hết lụt, tiến hành lắp xe lại. Riêng anh tri đề có nhiệm vụ bảo dưỡng kênh mương, đưa nước vào từng đám ruộng. Về dân, ai lấy nuớc từ xe gió nào, đến mùa, phải trả lúa cho chủ xe gió đó. Thông thuờng, họ phải nộp 30% tổng sản lượng thu hoạch. Hễ thu hoạch đám ruộng nào, thợ cũng gặt hết, sắp sẵn trên bờ. Khi xong xuôi, chủ điền và chủ xe gió đều có mặt, cứ 10 bó, chủ điền cắt ra 3 bó cho chủ xe gió. Cứ đếm cho đến khi hết mới thôi. Thợ gặt phải gánh về cho chủ. Trong tổng số lúa thu hoạch được, chủ xe gió phải chi nhiều thứ, nhất là chi cho việc bảo dưỡng xe, tức mua tre, gỗ... thay thế những bộ phận hư hỏng. Rồi chi 10% cho người giữ xe và 5% cho anh tri đề. Còn lại phần chủ xe gió. Nhiều hay ít tuỳ vào chiếc xe ấy có mấy bánh, to hay nhỏ, tưới được bao nhiêu thửa ruộng.



Phong cảnh vùng quê xưa. Ảnh tư liệu
 

Từ chủ xe gió đầu tiên ở vùng Lục Bắc và cũng là người có nhiều xe gió nhất hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là ông Quách Đại Thụ. Kế đến là con ông, ông Quách Thái. Họ cũng là những gia đình giàu nức tiếng vùng Hà Dục xưa. Không chỉ gia đình họ Quách, Lục Bắc cũng xuất hiện hàng chục chủ xe gió như ông Xã Thao, ông Cửu Thoan, ông Hội Lầu, ông Hội Thơ, ông Cửu Phiếu, ông Hương Nha và cả ông... Hứa Thiệu, nguyên là thợ cả chế tạo xe gió đầu tiên ở Lục Bắc. Đặc biệt, ông Hứa Thiệu làm xe gió, chủ xe gió và cũng là người... chết vì xe gió. Nguyên năm ấy, có xảy ra trận lụt khá lớn. Do chủ quan, chưa tháo xe gió kịp nên nó bị nước lũ cuốn trôi. Tiếc của, ông mới boơ ghe, xuoi theo sông Vu Gia, xem thử xe gió tấp chỗ nào. Không ngờ, nước chảy xiết, ghe bị lật, ông trôi theo dòng nước. Người ta bảo, có khi ông... sinh nghề tử nghiệp. Cũng theo tương truyền, vào thời kỳ cao điểm của xe gió, vũng Đại Lãnh có không dưới ba mươi xe, cả lớn và nhỏ.
Có một câu chuyện người dân vùng Hà Dục nhớ mãi là hồi kháng chiến chống Mỹ, phát hiện chiếc xe gió không động cơ nhưng cứ chạy bất kể ngày đêm, lại đưa nước lên đồng ruộng, bọn Mỹ thấy lạ quá, mới đem máy ảnh lên chụp lại. Nhưng, đó cũng là thời kỳ máy nước dần dần thay thế xe gió. Sau ngày giải phóng, do khó khăn chung, hợp tác xã chủ trương làm lại xe gió. Nhiều bờ xe gió được phục hồi và phát triển. Hiện nay, máy bơm hoàn toàn thay thế xe gió. Tuy nhiên, ở nhiều thửa ruộng các công trình thuỷ lợi không thể vươn đến, người dân vẫn tiếp tục dùng xe gió, chủ yếu là những chiếc xe gió một bánh, nhỏ, còn gọi là xe khe, xe suối, chủ yếu đưa nước dưới các khe, suối lên tưới đôi ba sào ruộng. Có thể nói, đó là những chiếc xe gió cuối cùng còn sót lại trên vùng đất nổi tiếng với những chiếc xe gió đã đi vào... lịch sử này!



[1] Theo gia phả tộc Quách ở Hà Dục, ông Quách Đại Thụ sinh năm 1862 và mất năm 1942. Ông này nhà giàu, có một lúc đến... 5 bà vợ!


Monday, July 11, 2011

NGẬM NGÃI TÌM TRẦM!

Ở Quảng Nam, có một làng chuyên ngậm ngãi tìm... trầm. Đó là làng Bàng Tân thuộc xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc. Có thể nói, Bàng Tân là một trong những làng có truyền thống đi trầm lâu đời nhất…


Anh Võ Văn Tĩnh một thợ trầm lão luyện. Ảnh Đ.Đ


Không ai có thể xác định nghề trầm Bàng Tân xuất hiện từ bao giờ. Điều chắc chắn nó ra đời từ rất lâu. Cứ đời cha truyền lại cho đời con, đời con lại tiếp tục truyền lại cho đời cháu… và trở thành truyền thống. Điều đáng chú ý không chỉ người Bàng Tân đi trầm mà chính ở Bàng Tân cũng có không ít người buôn trầm, gọi là chủ trầm. Hồi nửa đầu thế kỷ XX, chủ trầm có tiếng ở Bàng Tân là ông Thủ Nghĩa, ông Chánh Phong, bà Nghè Chín, bà Đoàn Thị Cường, bà Mai Thị Mỹ…Những người này thường mua trầm của bà con trong cũng như ngoài làng chuyên đi trầm. Tuy gọi là chủ trầm nhưng họ cũng chỉ là chủ trầm hạng…vừa. Nhiệm vụ chính của họ chỉ là làm đại lý thu mua trầm cho các thương nhân Hoa Kiều ở Đà Nẵng và ở Hội An. Nghĩa là họ cũng chỉ là tầng lớp buôn trung gian, mua tận ngọn nhưng bán không phải tận gốc. Phải qua tay Hoa Kiều. Và, dĩ nhiên, mối lợi lớn từ sản phẩm trầm nổi tiếng ở vùng Đại Lộc rơi vào tay họ.
Hồi tưởng về giai đoạn này, ông Phạm Trinh, một trong những láo làng, nhớ lại “Bấy giờ những người trực tiếp tìm trầm gọi là phu trầm. Trong làng lúc nào cũng có độ ba, bốn chục người như thế. Phu thì…khó có thể giàu. May lắm là có dư chút đỉnh. Riêng chủ trầm, tiêu chuẩn đàu tiên là phải giàu. Có giàu mới làn chủ trầm nổi. Đã giàu, làm chủ trầm dĩ nhiên sẽ giàu hơn. Cho nên, chủ trầm đều có nhà ngói, có trai cày, có đất ruộng thẳng cánh cò bay…Trong đó, giàu nhất là bà Nghè Chín. Gọi là bà nghè vì chồng bà làm đến chức chánh tổng. Nhưng, bà giàu nhờ nghề buôn trầm chứ không phải nhờ chức tước của ông chồng. Chú biết không, bà giàu đến mức đất ruộng mô mô cũng có. Trong Đại Lộc có mà ngoài Đại Lộc cũng có”. Ngoài bà Nghè Chín, những chủ trầm còn lại cũng đều có nhà ngói khang trang, có của ăn của để. Trong nhà lúc nào cũng có trai cày, có kẻ hầu người hạ. Cuộc sống quanh năm nhàn hạ, sung túc hơn người.
Dù gọi là phu trầm như trước Cách mạng Tháng Tám hay dân đi trầm theo cách gọi như hiện nay đều là những người trai tráng khoẻ mạnh, chịu được cực, khổ, giỏi luồn rừng, lội suối. Được biết, ngày xưa, phu trầm Bàng Tân thường vay vốn của các chủ trầm, một phần để lại cho gia đình tiêu dùng, phần còn lại để mua sắm những vật dụng cần thiết cho chuyến đi “ngậm ngãi tìm trầm”. Đó là các loại rìu lớn, rìu nhỏ, rồi đục, đũm…chuyên để hạ cây, đẻo vỏ lấy trầm. Ngoài ra, họ còn phải mang theo cả những đồ dùng cá nhân. Theo thông lệ, các chủ trầm tổ chức một lượt nhiều xâu, tức các phu trầm. Mỗi xâu chừng năm, bảy người và có một người gọi là điệu, chuyên mang theo lương thực, làm những việc lặt vặt giúp các xâu, tức các phu trầm. Chủ trầm không chỉ tạm ứng tiền bạc, thuê người làm điệu mà còn có bổn phận phải liên hệ với các già làng, các trưởng bản ớ những vùng heo hút, nơi phu trầm sẽ tìm trầm, để mua bao nhiêu ngày, gọi là mấy “hẹn gạo”, tức khoảng thời gian phu trầm và điệu ăn hết sô gạo mang theo và phải trở ra gặp chủ để giao trầm, lấy tiền và lương thực cần dùng trong thời gian đến. Riêng các già làng, trưởng bản lấy muối, trâu, rượu…tuỳ ý, theo đúng thoả thuận với các chủ trầm. Nói chung, mỗi chủ trầm có số phu trầm riêng. Phu trầm ứng tiền, bạc…của chủ trầm nào thì về giao lại trầm cho chủ ấy. Tuỳ theo chất lượng, số lượng  trầm mà họ được trả tiền ít hay nhiều. Dĩ nhiên, phu trầm phải trả tiền ứng trước cho các chủ trầm. Còn thừa bao nhiêu mới đem về cho gia đình, vợ con.
Từ những năm cuối thập kỷ 1970 đến những năm đầu thế kỷ XXI, làng trầm Bàng Tân cũng sốt theo những đợt sốt trầm ở Quảng Nam. Theo anh Mai Xuân Quang, trong mấy chục năm qua, Bàng Tân năm nào cũng có hàng mấy chục thanh niên, tráng niên toả đi khắp nhiều tỉnh miền Trung để tìm trầm, từ vùng núi Quảng Nam đến  Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Phú Yên… Ăn của rừng, rưng rưng nước mắt. Ông Phạm Trinh đúc kết  “Chuyện đi trầm, trúng trầm xưa nay chẳng khác chi chuyện…trúng số, nghĩa là người trúng phải có số trúng mới trúng được. Mà, như chú biết, người mua số thì nhiều nhưng trúng số thì có bao nhiêu…Làng trầm Bàng Tân cũng không khác là mấy…”. Cho nên, trong mấy chục năm trở lại đây, theo anh Mai Xuân Quang, chỉ có một người ở làng trúng đậm, được đâu cỡ nửa tỷ bạc. Đó là anh Nguyễn Đức Tân. Sau chuyến trầm ấy, anh xây được ngôi nhà ba tầng và…thôi kiếp “phu trầm” với nhiều rủi ro khó tránh khỏi.

Bên kia là dãy Trường Sơn. Ảnh Đ.Đ

Nhắc chuyện rủi ro thì có cả hàng khối chuyện rủi ro. Ngoài việc bị sốt rét, nhất là sốt rét ác tính hành hạ thân xác, thậm chí có lúc phải bỏ mạng giữa nơi rừng thiêng nước độc thì chuyện bị cọp vồ ngày xưa, chuyện bị bọn cướp rình rập tước đoạt mạng sống để lấy trầm những năm về sau này  không phải không xảy ra giữa chốn núi rừng âm u, không một bóng người qua lại. “Cách đây khoảng mười năm, từng xảy ra trường hợp một thanh niên đi trầm là anh Nguyễn Văn Dũng phải bỏ mạng vì sốt rét ác tính. Rồi anh Trần Bốn cũng bị đánh chết…”. Anh Mai Xuân Quang thổ lộ. Đó là những trường hợp anh còn nhớ. Còn chuyện anh đã quên, thật ra, cũng rất nhiều, rất phong phú.Và, ngay cả chuyện ông Phòng Thiệt hồi đầu thế kỷ XX, tuy trúng trầm và trở nên giàu có nhưng ông cũng đã từng bị một “tai nạn” suýt chết. Nguyên trong một chuyến làm phu trầm, không biết vì lý do gì, ông bị một tốp người dân tộc bao vây, quyết đâm cho chết. Những phu trầm khác thấy ông lâm nguy, bèn lén ném vô cho ông một “cây bả đậu”. Nhờ giỏi võ, ông đánh tốp thanh niên dân tộc chạy trối chết. Việc ông Phòng Thiệt dùng “cây bả đậu”, tức cây đậu mềm xèo ấy để đánh lại cả mười thanh niên dân tộc ngày ấy không biết có đúng không, hay là có bao nhiêu phần trăm sự thật. Nhưng, chắc chắn, chuyện ông thoát thân và sau này trúng trầm, trở nên giàu có là chuyện thật một trăm phần trăm.
Được biết, hiện nay, toàn thôn Bàng Tân có tổng cộng 220 hộ. Thế nhưng, đã có trên 50 người đi trầm quanh năm, chưa kể số đi không thường xuyên. “Nghề trầm bây giờ càng đi xa càng có nhiều hy vọng. Càng rúc vào những vùng rừng thiêng nước độc, ít dấu chân người càng có hy vọng trúng trầm, hy vọng đổi đời…”. Anh Mai Xuân Quang bảo. Dù trầm ít đi, đã khai thác gần như cạn kiệt nhưng không vì thế mà dân làng trầm bỏ nghề. Bởi có đi là có hy vọng. “Ai cũng bảo biết mô trời thương, trời cho trúng số. Như vụ mấy thanh niên ở Mỹ Hảo, xã Đại Phong từng trúng kỳ nam hương, nghe nói trúng cả mấy chục tỷ đồng…”. Vẫn lời anh Mai Xuân Quang. Tiếp sau vụ trúng kỳ nam ở Mỹ Hảo là vụ trúng kỳ nam hương của thợ trầm thôn Song Bình, xã Đại Quang, mấy năm trước đây phần nào kích thích dân đi trầm. Giấc mơ đổi đời lại bùng cháy hợn bao giờ hết. Theo anh Võ Văn Tĩnh, một thợ trầm kỳ cựu, người từng có thâm niên hàng chục năm đi trầm thì những vụ trúng kỳ nam như thế cực hiếm. “Tui biết chắc ở địa bàn Quảng Nam – Đà Nẵng không bao giờ có kỳ nam. Bọn họ đều trúng ở miền núi các tỉnh Nam Trung bộ...”. Và, đó là nguyên nhân khiến những người đi trầm ở làng trầm Bàng Tân, cũng như các làng trầm khác ở Quảng Nam, có cái để mà nuôi hy vọng, tiếp bước theo nghề đã có bề dày hàng mấy trăm năm trong lịch sử.

Sunday, July 10, 2011

CHUYỆN KỂ XÓM BÀU...


Danh xưng xóm Bàu, nay thuộc thôn Vân Quật, xã Duy Thành, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, bắt nguồn từ lý do rất đơn giản. Ấy là trong xóm có một... bàu nước. Bàu hiện nay chiều dài gần 2 cây số còn bề ngang trên trăm mét. Theo người dân địa phương cho biết, khi chưa có công trình thuỷ lợi, nhiều năm nắng hạn gay gắt, bàu gần như cạn nước. Đó là thời điểm dân làng rủ nhau đi bắt cá, tát cá. Họ đi bắt nhiều lúc đông như đi trẩy hội. Người lớn có mà con nít cũng có. Cá bấy giờ nhiều vô kể. Bắt để ăn và cũng bắt để... bán. Nhưng, đặc biệt nhất, khi nước cạn, trong bầu lại lòi ra phần trên của một chiếc ghe bầu. Còn phần dưới chôn chặt dưới lớp đất bùn. Chuyện… chiếc ghe bầu, phương tiện chuyên chở hàng hoá, vật dụng xưa  làm các cụ già đồn đoán rằng chắc hẳn cái bàu này mấy trăm năm trước nằm trên tuyến đường giao thông sông nước. Bấy giờ, cũng không ai nghĩ đến chuyện…thử đào ghe bầu, xem thử bên trong có cái gì, chứa cái gì. Hiện nay, do có công trình thuỷ lợi đưa nước vào đồng ruộng nên bàu nước quanh năm đầy nước. Chuyện bắt cá mùa hè khi bàu cạn trở thành chuyện dĩ vãng. Và, chiếc ghe bầu bí ẩn kia vẫn còn nằm sâu dưới đáy bàu quanh năm mênh mông nước.

Bàu nước ở Xóm Bàu. Ảnh Đ.Đ

Lại có chuyện cũng khá lý thú rằng hồi thế kỷ XIX, một phần đất xóm Bàu nguyên là đất của làng Triều Châu thuộc Duy Phước chứ không phải đất của làng Vân Quật thuộc Duy Thành. Còn vì sao xóm Bàu phải "đổi chủ" lại bắt nguồn từ sự tích mà đến nay nhiều bô lão trong xóm vẫn thường hay kể cho con cháu nghe. Số là thời xa xưa, ở làng Triều Châu có một gia đình phú hộ gả con gái cho một chàng thanh niên người tộc Hứa tại làng Vân Quật, xã Duy Thành. Nhưng, điều đáng buồn là cô gái này về nhà chồng đã lâu mà chẳng có con. Gia đình phú hộ thấy vậy, sợ sau này con chết sẽ không có ai thờ tự, lại sẵn có nhiều đất ruộng, bèn nảy ra ý kiến cắt một ít đất ở xóm Bàu cho con gái. Mà con gái phú hộ bấy giờ đang làm dâu trên đất Vân Quật. Thế cho nên, từ đó trở đi, số đất ruộng này đương nhiên thuộc làng Vân Quật xã Duy Thành chứ không còn thuộc làng Triều Châu xã Duy Phước.

Lăng Ông Xóm Bàu. Ảnh Đ.Đ
Riêng bàu nước nằm trên địa phận xóm Bàu và góp phần hình thành danh xưng xóm... Bàu cũng là nguyên nhân gây ra một vụ tranh chấp hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Người xóm Bàu giành bàu nước đã đành nhưng người Triều Châu cũng cho rằng bàu nước này thuộc dân làng Triều Châu. Thế là cả hai làng kiện nhau. Đặc biệt, không bên nào đưa ra được chứng cứ, trên giấy trắng mực đen rằng cái bàu nước "vô tri vô giác" này của mình cả. Quan huyện... bí mà ngay cả quan phú cũng bí theo, chẳng biết phân xử sao cho thấu tình đạt lý. Cho nên, vụ kiện cứ kéo dài, tốn không biết bao nhiêu giấy mực, công sức của dân hai làng Triều Châu, Vân Quật và có lúc tưởng như đi vào ngõ cụt. Thế nhưng, cuối cùng, dân cả hai làng đều nhất trí một cách giải quyết có thể nói là "độc nhất vô nhị". 

Số là không biết từ bao giờ, có một lão ngư, người gốc Quảng Bình, không biết nguyên nhân vì sao môt thân một mình lặn lội vào Vân Quật kiếm sống. Nghề nghiệp chính của ông là đánh cá trên bàu nước này. Do không có vợ, không con nên khi nghe phong phanh chuyện hai làng Triều Châu và Vân Quật tranh bàu, ông bèn hiến kế “Nếu tui chết, tui sẽ chết trên cái bàu ni. Mà khi chết, xác tui trôi về xóm mô thì cái bàu thuộc xóm ấy. Tui chỉ xin một ân huệ cuối cùng là làng mô thắng phải lập miếu thờ…”. Nghe ông trình bày, cả hai bên đều đồng ý. Mà ông chết thật. May mắn thay, xác ông trôi về xóm Bàu, Vân Quật. Kể từ đó, bàu nước thuộc chủ quyền của cư dân xóm Bàu. Và, để thực hiện lợi hứa, người dân địa phương bèn góp tiền của xây một cái miếu nhỏ sát bàu để thờ cúng lão ngư. Người ta gọi đó là lăng Ông. Năm 1964, xảy ra trận lụt khủng khiếp năm Thìn đã cuốn trôi bài vị. Chuyện hi hữu là nó lại trôi dạt vào chùa Vân Quật, nay gọi là Giác Vân tự. Thiên hạ đồn là do Ông thiêng, mới không trôi mất. Thực hư thế nào chẳng rõ. Chỉ biết sau đó, khi nước rút đi, dân làng lại đem bài vị về thờ ngay chỗ cũ cho đến nay...

Thực hư chuyện kể khó ai có thể xác định nổi. Đời cha cứ kể cho con rồi con cứ kể cho cháu.... Riết rồi thành chuyện cổ tích, chuyện của đời xửa đời xưa. Đặc biệt, hiện nay, ở xóm Bàu vẫn di tích. Đó là di tích lăng Ông. Vâng, để hoàn toàn làm chủ bàu nước vô tri vô giác nhưng vô cùng hữu ích kia, quả thật, người dân xóm Bàu phải hàng năm hương khói cho Ông. Âu, đó cũng là điều hợp đạo lý lắm ru![1]


[1] Ông Huỳnh Thông, sinh năm 1927, người Xóm Bàu, thôn Vân Quật, xã Duy Thành, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, kể.

Saturday, July 9, 2011

CHUYỆN… VÕ TÒNG XỨ QUẢNG!


Trong tác phẩm "Thuỷ Hử", Thị Nại Am đã xây dựng một nhân vật nổi tiếng là Võ Tòng, một trong một trăm linh tám anh hùng Lương Sơn Bạc, có sức mạnh kinh người. Một lần, khi đi qua núi Cảnh Dương, Võ Tòng gặp hổ và... tay không đánh chết con hổ nổi tiếng hung hãn này. Không chỉ ở bên Tàu, ngay tại làng Dùi Chiêng, một ngôi làng nằm ở thượng nguồn sông Thu Bồn, nay thuộc xã Quế Phước, huyện Quế Sơn, cũng có một nhân vật đánh nhau với cọp. Tuy cuối cùng, cả người và cọp đều chết nhưng danh tiếng của ông thì vẫn mãi mãi còn lại với thời gian. Hơn thế nữa, ông còn được bà con yêu mến tôn vinh ông là "Võ Tòng" của Quảng Nam!

Đường lên Dùi Chiêng. Ảnh Đ.Đ


Trong ký ức của những bậc cao niên thì hồi nửa đầu thế kỷ XX, Dùi Chiêng hãy còn là vùng rừng thiêng nước độc, chỉ lèo tèo năm, sáu chục ngôi nhà nằm cheo leo men theo vách núi, hướng ra thượng nguồn sông Thu Bồn. Khung cảnh làng bấy giờ thâm u, hoang vắng, gần như biệt lập với thế giới xung quanh. Sáng ra, thức dậy, bước ra cửa đã thấy núi, thấy rừng, nghe tiếng chim kêu, vượn hú, tiếng suối cháy róc rách, tiếng gà rừng gáy đâu đây. Thỉnh thoảng lại nghe cả tiếng... cọp gầm. "Chi chớ cọp ở Dùi Chiêng bấy giờ nhiều lắm". Ông Nguyễn Tửu, 82 tuổi, một lão làng, nhớ lại. Chiều xuống, khi trời vừa tắt nắng, không khí lạnh từ rừng sâu, núi cao bắt đầu tràn ngập, nhà nào nhà nấy cửa đóng kín mít. Không ai dám ra ngõ. Thậm chỉ  tiểu tiện, đại tiện cũng trong nhà, sáng mai phần ai nấy lo "giải quyết hậu quả". Nhiều đêm nghe tiếng cọp đi qua đi lại mà lạnh cả xương sống.
Và, trong cuộc đấu tranh sinh tồn, không biết từ bao giờ làng Dùi Chiêng lại lưu truyền câu chuyện ít nhiều mang màu sắc hoang đường về một nhân vật "Võ Tòng" của miền sơn cước Quảng Nam khi dám tay không "quần nhau" với hổ dữ. Nhân vật làm nên kỳ tích khiến dân làng Dùi Chiêng còn nhắc đến hôm nay là ông Trùm Hò. Không ai biết ông họ chi và từ đâu đến. Chỉ biết, ông cao lớn, giỏi võ nghệ, sức địch muôn người. Thế cho nên, dân làng sợ cọp nhưng ông thì không. Ngày ngày, ông thường lầm lũi băng rừng, trèo suối chặt cây gỗ về bán kiếm cơm. Hôm nọ, ông đang trên đưòng vác cây về thì gặp cọp. Ông bèn bỏ rìu, tay cầm rựa thủ thế. Cọp gầm lêm một tiếng long trời lở đất trước khi nhảy vồ "con mồi".  Ông nhanh nhẹn lách qua bên kia, tránh được. Ngay sau đó, cả hai, cọp và người, quần nhau đánh suốt một ngày ròng rã. Cứ cọp nhảy sang bên trái thì ông nhảy qua bên phải và ngược lại. Ông vừa nhảy vừa lợi dụng thời cơ chém cọp. Chiều dần tắt nắng.  Cuộc đấu không thể phân ra bên thắng bên thua. Cuối cùng, cả hai vừa khát nước vừa kiệt sức rồi chết. 

Dinh Ông. Ảnh Đ.Đ
Để tưởng nhớ ông, một "Võ Tòng" của đất Quảng, dân làng bèn lập miếu thờ. Đặc biệt, trên bàn thờ có để hai cái đầu. Một đầu người và một đầu cọp. Đầu người là của ông Trùm Hò. Còn đầu kia là của con cọp nọ. Hàng năm, cứ đúng vào ngày lễ "khai truông", cũng là lễ "khai hạ" , dân làng tổ chức cúng thần núi. Người ta mổ 1 con heo, để y nguyên cả đầu cẳng, lòng… đầy đủ, cúng cùng với những lễ vật khác như chè, xôi, hương đèn. Sau khi cúng, họ cắt đầu heo ra, giao cho anh giáp làng nhiệm vụ bưng vào Dinh Ông, để đầu heo lại. Cứ để đúng ba ngày ba đêm. Nếu sau đó cọp không xuống núi để ăn thì anh giáp được hưởng đầu heo này. "Tui nghe kể có năm cọp xuống ăn nhưng cũng có năm không xuống". Ông Nguyễn Tửu cho biết. Năm 1964, khi trận lụt khủng khiếp năm Thìn xảy ra, hai đầu để thờ, đầu cọp và đầu người đã bị nước lũ cuốn trôi. Dinh cũng bi hư hại nhiều. Hiện nay, dinh chỉ còn trơ "xác", tức ba bức tường nham nhở, phần mái đã tốc, được che chắn tạm bợ, dấu tích duy nhất còn sót lại của ông Trùm Hò, người được dân làng tôn vinh là "Võ Tòng" của Quảng Nam.
Sau ông Trùm Hò, làng Dùi Chiêng xuất hiện hai cha - con và cũng là hai nhân vật bắt cọp "khét tiếng" ở miền Tây Quảng Nam. Đó là công Phạm Bá Doãn và ông Hội Hồng. Nhưng, cả hai bắt bằng mưu trí, chứ không ai dám "đánh" nhau đến độ cả người và cọp đều bỏ mạng như ông Trùm Hò. Để bắt cọp, họ làm một thứ bẫy mà người địa phương quen gọi là "chùa". Dấu tích còn lại của những cái "chùa" bắt cọp này là một địa danh người ta gọi là kiệt Chùa, tức kiệt có "chùa" bắt cọp. "Chùa" không to, ngang gần 1 mét, dài khoảng 5 mét, hoàn toàn bằng cây săn, chắc, được chôn sâu xuống đất, phía trên cũng được cột kỹ, chèn đá to, làm sao để một khi cọp đã vào bẫy không thể vùng ra nổi. Trong chùa nhốt một con chó, ngăn lại. Cọp đi, nghe tiếng chó sủa, mò đến. Khi nó vừa vào thì bẫy sụp sụp xuống. Người ta chỉ  việc dùng giáo nhọn mà đâm cho đến lúc cọp chết mới thôi. "Tui năm nay đã 82 tuổi, nhưng từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ thấy cái chùa ra răng. Tất cả chỉ nghe người ta kể lại, mô tả lại". Ông Nguyễn Tửu cho biết. Như thế, "chùa" bắt cọp biến mất hồi cuối thập kỷ 1920, đầu thập kỷ 1930.
Đó cũng là lúc ông Bá Doãn nghiên cứu làm cái kẹp gài cọp. Kẹp bằng sắt, nặng đến bốn, năm mươi ký, thường phải hai người khiêng. Bấy giờ, theo thói quen, dân làng Dùi Chiêng thường chăn thả trâu. Lúc đói mồi, cọp hay bắt trâu. Khi vồ được, nó tha vào rừng, ăn bộ lòng. Còn lại, nó giấu một nơi, chờ lúc đói, lại đến ăn tiếp. Nắm rõ thói quen "chết người" này, mỗi khi bị cọp bắt trâu bò, dân làng liền theo dõi, xem cọp giấu xác trâu ở đâu. Sau đó, họ đến nhờ ông Bá Doãn gài kẹp giùm. Để chắc ăn, ông Bá Doãn cho gài hai, ba cái kẹp. Gài xong, họ cột chặt kẹp vào gốc cây to với mục đích cọp khi đã bị mắc kẹp, không thể lôi kẹp đi mất. Chuyện cọp bị kẹp kẹp cứng vào chân, không đi được, chỉ  nằm một chỗ chờ chết thì lớp người như ông Nguyễn Tửu từng chứng kiến quá nhiều lần. "Như nội ở làng Dùi Chiêng, hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 năm nào cũng có cọp bị mắc kẹp. Năm nhiều có thể lên đến ba, bốn con!".
Sinh thời, cả ông Phạm Bá Doãn và ông Hội Hồng đều là những người nổi tiếng "sát cọp". Cũng vì vậy mà danh xưng "làng bắt... cọp", tức làng Dùi Chiêng, chẳng qua chỉ để nói đến hai cha con họ. Đặc biệt, khi bắt được con cọp nào, họ thường lấy "công" là bộ xương cọp. Tương truyền, gia đình ông Bá Doãn giàu nức tiếng ban đầu nhờ nấu cao hổ cốt. Ông có nhiều sáng kiến bắt cọp, từ sử dụng "chùa" đến kẹp gài cọp. Khi ông mất đi, con ông, tức ông Hội Hồng lên thay thế. Nhờ nấu cao hổ cốt, ông nhanh chóng giàu lên, mua ruộng đất, phát canh thu tô. Bấy giờ, vay ang lúa, chỉ  qua một mùa, trả thành ang rưỡi. Nghĩa là lời đến… 50% chỉ qua mấy tháng. Thế nên, người giàu càng giàu thêm. Còn dân nghèo, lỡ vay, nhiều khi trả hoài vẫn còn nợ. Sẵn tiền sắn bạc, ông Bá Doãn bỏ tiền ra xây đến ba ngôi nhà lầu. Tuy giàu, nhưng ông Bá Doãn và sau này là ông Hội Hồng, may thay, lại được dân làng cho rằng có lòng hào hiệp chứ không keo kiệt như những người khác!