Wednesday, July 6, 2011

KÝ ỨC MỘT NGÔI LÀNG

Đó là làng Quan Châu, nay thuộc xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Theo các bô lão, khởi thủy, làng Quan Châu có danh xưng là Châu Nguyên. Sau, không biết vì lý do gì đổi lại là Minh Châu. "Minh” nôm na nghĩa là sáng. Còn "Châu" là ngọc châu, là món hàng quý giá. "Minh Châu" có nghĩa là viên ngọc sáng.  Còn về sau này, do chữ "Minh” trùng với vua hiệu vua Nguyễn là Minh Mạng nên phải đổi lại là Quan Châu. Và, xung quanh chuyện đất và người làng Quan Châu, có một số câu chuyện kể khá lý thú...

Đình làng Quan Châu. Ảnh Đ.Đ

1. Tích cũ ghi lại rằng vào đời vua Lê Cảnh Hưng đời Hậu Lê, tức vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVIII, có bốn tộc tiền hiền là Trần, Đoàn, Lê, Huỳnh nguyên quán Bắc Hà, đã đến vùng đất nay thuộc huyện Hoà Vang để khai khẩn đất hoang, lập làng, lập xóm. Đầu tiên, họ đến Diêu Trì nằm trên địa bàn xã Hoà Nhơn. Tuy nhiên, do vùng đất này còn là nơi hoang vu, đầm lầy, nước đọng, lại đầy thú dữ... nên sau khi khai phá được khá nhiều đất đai, thấy bà con một số bị bệnh tật, cuộc sống cơ cực quá, họ quyết tìm vùng đất mới thuận lợi hơn để lập nghiệp, đúng như tinh thần bản văn tế cổ ở nhà thờ tiền hiền làng hàng năm còn lưu lại qua nhiều đời, rằng "Nguyên tiền Diêu Trì doanh tiểu trú. Hậu tầm trưng xã bộ vu châu nguyên...".  Cũng theo văn bản cổ nói trên, thuở ban đầu, Quan Châu còn là nơi đất rộng, người thưa nên làng mới "mời" người tứ phương về cùng vỡ hoang, phát triển kinh tế nông nghiệp "Kế nhi địa quảng dân hi, chiêu nộp tứ phương cộng tác". Để từ đó, các tộc tiền hiền đã xây dựng lên làng Quan Châu với dân cư đông đúc, đất đai trù phú như ngày nay.
2. Thời trước, đất làng Quan Châu rất rộng, gồm ba ấp là Thượng Hoà ấp, Trung Hoà ấp, Hạ Hoà ấp. Sau đó lại thêm ấp Tân Hoà. Rồi cũng có xóm gọi là xóm rừng với hai khu rừng là Thượng Lâm và Hạ Lâm. Ngoài ra còn có xứ Cà Quá, Trà Minh, Cây Cốc, Coi Vạc, Kiều Liền, Mưng Nội, Mưng Ngoại, Bàu Đinh... Hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Quan Châu có nhiều cây lớn như cây trâm, cây da. Đặc biệt, có cây sợp rất to, cành lá bao phủ cả khoảnh đất ước cả sào. "Bấy giờ, chiều chiều lũ quạ đen không biết từ mô bay về đậu đen cả cây. Rồi, tới mùa sợp rụng lá, ra búp, nhân dân leo lên hái về xắt trộn với rau sống, ăn cũng rất ngon". Ông  Đoàn Tới, một lão làng đất Quan Châu, nhớ lại. Cũng theo ông, theo tập tục ở địa phương, cứ vào khoảng hai ba tháng chạp, ngày đưa ông táo về trời, cả làng đem ông táo cũ ra bỏ đầy gốc cây sợp. Đồng thời đó cũng là lúc họ đắp ông táo bằng đất mới. Không chỉ là nơi tập trung ông táo cũ, gốc cây sợp còn là nơi các bà, các chị chuyên ăn trầu cau bỏ bình vôi đã bít chặt vôi, không thể sử dụng được nữa xuống gốc cây. Hiện nay, do chiến tranh, cây sợp đã bị triệt hạ. Rồi rừng Quan Châu cũng không còn. Thời gian đã làm vật đổi sao dời, âu cũng là chuyện thường tình.
3. Lại có câu chuyện kể rằng, ngay từ khi lập làng, để ghi nhớ công đức của các những người đi trước, Quan Châu đã xây dựng nhà thờ tiền hiền. Ban đầu, nhà thờ bằng tranh tre. Mãi đến khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, làng mới xây dựng quy mô với mái ngói, tường vôi, chạm khắc gỗ... Trong ký ức của lớp người cao  tuổi, nhà thờ tiền hiền được xây một lần với đình. Làng rước thợ về xây lò đức gạch ngói. Còn chạm khắc gỗ là nghệ nhân làng mộc nổi tiếng Kim Bồng. Theo sự phân công của lý trưởng, thanh niên, tráng niên chia ra từng tốp. Cứ tối đến, hết tốp này đến tốp khác thay phiên nhau tập trung giã vôi để sáng mai có sẵn hồ cho thợ xây nhà. Đèn đuốc đêm nào cũng sáng choang. Trong lúc giã vôi, họ tổ chức hát hò rất vui. Không chỉ có đình làng bề thế, nhà thờ tiền hiền trầm mặc, uy nghi... Quan Châu còn có hàng loạt nhà thờ các tộc, rồi cũng có miếu Thần hoàng làng, miếu Bà Giàng, miếu Tam Vị... Cuối năm 1946, thực hiện chỉ thị của cấp trên, thanh niên được huy động phá huỷ một số nơi mà thực Pháp có thể lợi dụng làm nơi ẩn nấp, trú quân khi xâm lược nước ta. Tuy nhiên, khi đến nhà thờ tiền hiền thì trời đã tối, mọi người đã mệt, vôi xây lại quá chắc nên... không phá nổi. Nhờ thế nên sau này, bà con không phải tốn tiền bạc để xây nhà thờ tiền hiền mới và nó thật sự trở thành di tích văn hoá, mang đậm nét kiến trúc của vùng ven Đà Nẵng hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Một ngôi mộ cổ ở Quan Châu. Ảnh Đ.Đ

4. Dân làng bảo thời sơ khai, có bốn ông tiền hiền làng gồm các ông tộc Trần, rồi Đoàn, Lê và Huỳnh. Dù vào cùng thời, khai khẩn cùng lúc nhưng "công trạng" với làng mỗi ông mỗi khác, không ông nào giống ông nào mà có "thứ tự", "cấp bậc" hẳn hoi. Trong đó, đứng đầu là ông tộc Trần. Trong văn tế tiền hiền làng, ông tiền hiền tộc này được tôn là "Thủ khai thuỳ thống", tức người lãnh đạo, chỉ huy việc khai khẩn. Đây cũng là người có công đầu. Kế đến là tộc Đoàn "Sáng nghiệp toản thống khai khẩn", tức người có công mở mang sự nghiệp, kế thừa công cuộc khẩn hoang. Hai tộc còn lại là Lê, Huỳnh, công trạng ít hơn nên được suy tôn là "Khai cơ thiệu tự" và cuối cùng là "Toản tự". Trải qua mấy trăm năm lập nghiệp, bây giờ, ngoài tứ tộc tiền hiền, hiện nay, nhà thờ tiền hiền còn thờ cả những tộc hậu hiền, hơn hai mươi tộc. Điều đáng quý là, dù đến trước hay đến sau, các tộc đều sống chan hoà trong tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau. Lại có câu chuyện kể khá lý thú là hồi cuối thế kỷ XIX ở Quan Châu có ông Tựu, nhà nghèo, ngày ngày phải "vác" bộ đồ nghề của thợ... đóng cối xay đi khắp nơi nuôi con là ông Cai Ba "dùi mài kinh sử". Ông Cai Ba vốn thông minh, học giỏi nên sớm đỗ đạt, sau được bổ nhiệm làm Cai Tổng. Ông trở nên giàu có, vung tiền ra mua ruộng đất. Nhờ vậy mà sau này, con cháu ông Cai Ba nhiều người giàu nức tiếng như các ông Cửu Hương, Cửu Học. Với các cụ cao tuổi, ông Cai Ba trở thành tấm gương về học hành đáng để cho con cháu noi theo...

No comments: