Tuesday, February 5, 2013

SỰ TÍCH LĂNG NHƠN THẦN Ở làng Tân Lưu, nay thuộc khối Tân Trà, phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, có di tích khá lâu đời. Đó là lăng Nhơn Thần. Sự ra đời của di tích lăng Nhơn Thần gắn liền với câu chuyện kể khá hấp dẫn và thú vị, được lưu truyền qua nhiều đời...
Nguyên hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, làng Tân Lưu có một khu rừng khá rộng, chiều ngang khoảng 2 cây số, chiều dài trên 3 cây số, nằm sát biển. Trong rừng có nhiều loại cây ăn quả, nhiều loại cây cổ thụ. Ngoài bìa rừng có đình làng khá to, gọi là đình làng Tân Lưu. Kế đến, có một xóm chừng ba trăm nóc nhà. Người ta gọi đó là xóm Cát, bởi cả mấy trăm nóc nhà ấy đều nằm trên những bãi cát mênh mông. Rừng Tân Lưu, cũng như nhiều khu rừng của các làng xã bấy giờ đều do làng quản lý, được gọi là rừng cấm. Người dân không có quyền vào đốn cây, lấy củi nếu không được phép của làng. Ai vi phạm không những bị làng quở trách mà còn bị phạt tiền. Nhờ thế rừng được bảo vệ nghiêm ngặt, hết đời này sang đời khác, khu rừng cấm trở thành nguồn lợi của làng. Hàng năm, khi có tế lễ, hoặc tu bổ đình, miếu... làng mới quyết định bán một ít cây làm quỹ. Cũng vào quãng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở xóm Cát có một nhân vật khá đặc biệt. Đó là một ông họ Đặng. Ông này có vợ người tộc Mai, sinh ra hai người con gái. Gia đình ông nghèo khổ, quanh năm suốt tháng vất vả với miếng cơm manh áo hàng ngày. Đặc biệt, ông có nghề... tìm trầm. Nhưng, ông không lặn lội vào tận những khu rừng sâu, gần như vô chủ để “săn” trầm mà ông khai thác ngay tại khu rừng cấm rồi mang ra Tourane, tức Đà Nẵng ngày nay, bán cho người Hoa. Thoạt tiên, ông giấu kỹ, không cho ai biết. Nhưng, cuối cùng, chuyện chẳng mấy chốc đến tai làng. Thế là làng bắt phạt. Làng phạt, ông chịu. Nghĩa là ông nộp phạt. Tưởng phạt ông sẽ thôi, sẽ tởn đến già, không dám lấy nữa. Nhưng không, ông nộp rồi cứ lâu lâu, khi biết cây dó nào ở rừng Tân Lưu cho trầm, ông đều lẻn vào khai thác hết. Thấy phạt mãim, phạt mãi mà ông vẫn cứ “chứng nào tật ấy”, lý trưởng và các vị chức sắc trong làng mới tổ chức họp dân hỏi ý kiến với chủ ý để mọi người ký tên vào tờ “đồng thuận”. Ông Quờn, đại diện tộc Nguyễn, là dân biển, lại ít học, hăng hái “lăn” ngón tay điểm chỉ vào tờ “đồng thuận” trước. Sau đó, mới đến các tộc, họ khác. Trên cơ sở đó, làng “sức” dân đốn tre, làm rọ, chuẩn bị bắt ông người tộc Đặng. Khi biết tin làng sẽ bắt mình, ông bỏ chạy. Đám trai làng đuổi theo. Ông vội núp sau chuồng heo nhà bà Rác, lấy cái nơm úp cá úp lên người. Nhưng, sự việc cuối cùng cũng bại lộ. Đám trai làng bắt ông, nhốt vào rọ, bỏ lên chiếc ghe đậu sẵn ở bến ghe nhà ông Phổ, chở ra ngoài sông Hàn, đoạn giữa cầu Tuyên Sơn với cầu Nguyễn Văn Trỗi hiện nay, thả xuống nước để xác ông trôi đi đâu thì trôi. Bấy giờ, trời đã tháng chín, tháng mười, trời mưa tầm tã, nước dâng cao. Thế cho nên, xác ông không trôi ra biển mà lại trôi ngược về ngay chỗ cũ, trước bến nhà ông Phổ. Cũng bắt đầu từ lúc đó, một sự kiện lạ lùng và khủng khiếp đã xảy ra. Đầu tiên là 4 người tộc Nguyễn của ông Quởn bỗng nhiên nổi lên ỉa mửa rồi chết. Tiếp đến, các tộc, họ khác cũng diễn ra tình trạng tương tự. Cả làng, đâu đâu cũng có tiếng khóc than thảm thiết. Tổng cộng, đã có hơn mười người chết. Xưa, nghe nói làng nào có nhiều người chết, nhất là chết bất đắc kỳ tử, dân các làng lân cận tò mò đến xem rất đông. Trong số những người đến xem, có thằng bé khoảng mười lăm tuổi, bỗng lên “đồng”, phán một câu xanh rờn rằng “...các người đã giết ta, các ngươi phải chôn cất tao đàng hoàng, làm nhà cho tao ở, không thì tao bắt chết hết”. Chuyện mười mấy người chết cùng một lúc và chuyện thằng bé lên đồng khiến dân làng hoảng hốt thật sự. Nhiều người quả quyết rằng do ông người họ Đặng bị làng bắt chết oan ức nên trả thù. Thế là làng mới cử người đến khiêng xác ông người họ Đặng lên, khấn vái, chôn cất đàng hoàng.
Xong, họ lập lăng, nằm ở xóm Cát, gọi là lăng Nhơn Thần, nghĩa là từ người biến thành thần. Đồng thời, làng quy trách nhiệm hàng năm người dân xóm này góp công của, tổ chức cúng tế linh đình. Nhà giàu lưng nửa ang gạo, ang nếp, nhà nghèo có khi chỉ mủng khoai. Ngoài ra, còn có quỹ thu được từ tiền bán gỗ ở khu rừng cấm Tân Lưu và tiền đóng góp của bà con trong làng. Nhờ vậy, năm nào, đến ngày ấy, làng cũng tổ chức làm heo, bò... Trong ký ức của những cụ già cao tuổi, lễ hội cúng Nhơn Thần diễn ra 6 ngày đêm, từ mồng 6 tháng giêng âm lịch và đến ngày 11 tháng giêng mới kết thúc. Trước lúc tổ chức, bà con tập trung dọn sạch khu vực lăng. Sau tế lễ, dân làng thường mời các đoàn hát bộ, hô bài chòi, có bán vé, để mọi người đến xem... Từ sau ngày Cách mạng Tháng Tám đến nay, do điều kiện khó khăn chung, lễ hội cúng ông Nhơn Thần đông vui, náo nhiệt không còn nữa. Thay vào đó là lễ cúng đơn sơ nhưng cũng không kém phần uy nghi, trang trọng .