Saturday, July 9, 2011

CHUYỆN… VÕ TÒNG XỨ QUẢNG!


Trong tác phẩm "Thuỷ Hử", Thị Nại Am đã xây dựng một nhân vật nổi tiếng là Võ Tòng, một trong một trăm linh tám anh hùng Lương Sơn Bạc, có sức mạnh kinh người. Một lần, khi đi qua núi Cảnh Dương, Võ Tòng gặp hổ và... tay không đánh chết con hổ nổi tiếng hung hãn này. Không chỉ ở bên Tàu, ngay tại làng Dùi Chiêng, một ngôi làng nằm ở thượng nguồn sông Thu Bồn, nay thuộc xã Quế Phước, huyện Quế Sơn, cũng có một nhân vật đánh nhau với cọp. Tuy cuối cùng, cả người và cọp đều chết nhưng danh tiếng của ông thì vẫn mãi mãi còn lại với thời gian. Hơn thế nữa, ông còn được bà con yêu mến tôn vinh ông là "Võ Tòng" của Quảng Nam!

Đường lên Dùi Chiêng. Ảnh Đ.Đ


Trong ký ức của những bậc cao niên thì hồi nửa đầu thế kỷ XX, Dùi Chiêng hãy còn là vùng rừng thiêng nước độc, chỉ lèo tèo năm, sáu chục ngôi nhà nằm cheo leo men theo vách núi, hướng ra thượng nguồn sông Thu Bồn. Khung cảnh làng bấy giờ thâm u, hoang vắng, gần như biệt lập với thế giới xung quanh. Sáng ra, thức dậy, bước ra cửa đã thấy núi, thấy rừng, nghe tiếng chim kêu, vượn hú, tiếng suối cháy róc rách, tiếng gà rừng gáy đâu đây. Thỉnh thoảng lại nghe cả tiếng... cọp gầm. "Chi chớ cọp ở Dùi Chiêng bấy giờ nhiều lắm". Ông Nguyễn Tửu, 82 tuổi, một lão làng, nhớ lại. Chiều xuống, khi trời vừa tắt nắng, không khí lạnh từ rừng sâu, núi cao bắt đầu tràn ngập, nhà nào nhà nấy cửa đóng kín mít. Không ai dám ra ngõ. Thậm chỉ  tiểu tiện, đại tiện cũng trong nhà, sáng mai phần ai nấy lo "giải quyết hậu quả". Nhiều đêm nghe tiếng cọp đi qua đi lại mà lạnh cả xương sống.
Và, trong cuộc đấu tranh sinh tồn, không biết từ bao giờ làng Dùi Chiêng lại lưu truyền câu chuyện ít nhiều mang màu sắc hoang đường về một nhân vật "Võ Tòng" của miền sơn cước Quảng Nam khi dám tay không "quần nhau" với hổ dữ. Nhân vật làm nên kỳ tích khiến dân làng Dùi Chiêng còn nhắc đến hôm nay là ông Trùm Hò. Không ai biết ông họ chi và từ đâu đến. Chỉ biết, ông cao lớn, giỏi võ nghệ, sức địch muôn người. Thế cho nên, dân làng sợ cọp nhưng ông thì không. Ngày ngày, ông thường lầm lũi băng rừng, trèo suối chặt cây gỗ về bán kiếm cơm. Hôm nọ, ông đang trên đưòng vác cây về thì gặp cọp. Ông bèn bỏ rìu, tay cầm rựa thủ thế. Cọp gầm lêm một tiếng long trời lở đất trước khi nhảy vồ "con mồi".  Ông nhanh nhẹn lách qua bên kia, tránh được. Ngay sau đó, cả hai, cọp và người, quần nhau đánh suốt một ngày ròng rã. Cứ cọp nhảy sang bên trái thì ông nhảy qua bên phải và ngược lại. Ông vừa nhảy vừa lợi dụng thời cơ chém cọp. Chiều dần tắt nắng.  Cuộc đấu không thể phân ra bên thắng bên thua. Cuối cùng, cả hai vừa khát nước vừa kiệt sức rồi chết. 

Dinh Ông. Ảnh Đ.Đ
Để tưởng nhớ ông, một "Võ Tòng" của đất Quảng, dân làng bèn lập miếu thờ. Đặc biệt, trên bàn thờ có để hai cái đầu. Một đầu người và một đầu cọp. Đầu người là của ông Trùm Hò. Còn đầu kia là của con cọp nọ. Hàng năm, cứ đúng vào ngày lễ "khai truông", cũng là lễ "khai hạ" , dân làng tổ chức cúng thần núi. Người ta mổ 1 con heo, để y nguyên cả đầu cẳng, lòng… đầy đủ, cúng cùng với những lễ vật khác như chè, xôi, hương đèn. Sau khi cúng, họ cắt đầu heo ra, giao cho anh giáp làng nhiệm vụ bưng vào Dinh Ông, để đầu heo lại. Cứ để đúng ba ngày ba đêm. Nếu sau đó cọp không xuống núi để ăn thì anh giáp được hưởng đầu heo này. "Tui nghe kể có năm cọp xuống ăn nhưng cũng có năm không xuống". Ông Nguyễn Tửu cho biết. Năm 1964, khi trận lụt khủng khiếp năm Thìn xảy ra, hai đầu để thờ, đầu cọp và đầu người đã bị nước lũ cuốn trôi. Dinh cũng bi hư hại nhiều. Hiện nay, dinh chỉ còn trơ "xác", tức ba bức tường nham nhở, phần mái đã tốc, được che chắn tạm bợ, dấu tích duy nhất còn sót lại của ông Trùm Hò, người được dân làng tôn vinh là "Võ Tòng" của Quảng Nam.
Sau ông Trùm Hò, làng Dùi Chiêng xuất hiện hai cha - con và cũng là hai nhân vật bắt cọp "khét tiếng" ở miền Tây Quảng Nam. Đó là công Phạm Bá Doãn và ông Hội Hồng. Nhưng, cả hai bắt bằng mưu trí, chứ không ai dám "đánh" nhau đến độ cả người và cọp đều bỏ mạng như ông Trùm Hò. Để bắt cọp, họ làm một thứ bẫy mà người địa phương quen gọi là "chùa". Dấu tích còn lại của những cái "chùa" bắt cọp này là một địa danh người ta gọi là kiệt Chùa, tức kiệt có "chùa" bắt cọp. "Chùa" không to, ngang gần 1 mét, dài khoảng 5 mét, hoàn toàn bằng cây săn, chắc, được chôn sâu xuống đất, phía trên cũng được cột kỹ, chèn đá to, làm sao để một khi cọp đã vào bẫy không thể vùng ra nổi. Trong chùa nhốt một con chó, ngăn lại. Cọp đi, nghe tiếng chó sủa, mò đến. Khi nó vừa vào thì bẫy sụp sụp xuống. Người ta chỉ  việc dùng giáo nhọn mà đâm cho đến lúc cọp chết mới thôi. "Tui năm nay đã 82 tuổi, nhưng từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ thấy cái chùa ra răng. Tất cả chỉ nghe người ta kể lại, mô tả lại". Ông Nguyễn Tửu cho biết. Như thế, "chùa" bắt cọp biến mất hồi cuối thập kỷ 1920, đầu thập kỷ 1930.
Đó cũng là lúc ông Bá Doãn nghiên cứu làm cái kẹp gài cọp. Kẹp bằng sắt, nặng đến bốn, năm mươi ký, thường phải hai người khiêng. Bấy giờ, theo thói quen, dân làng Dùi Chiêng thường chăn thả trâu. Lúc đói mồi, cọp hay bắt trâu. Khi vồ được, nó tha vào rừng, ăn bộ lòng. Còn lại, nó giấu một nơi, chờ lúc đói, lại đến ăn tiếp. Nắm rõ thói quen "chết người" này, mỗi khi bị cọp bắt trâu bò, dân làng liền theo dõi, xem cọp giấu xác trâu ở đâu. Sau đó, họ đến nhờ ông Bá Doãn gài kẹp giùm. Để chắc ăn, ông Bá Doãn cho gài hai, ba cái kẹp. Gài xong, họ cột chặt kẹp vào gốc cây to với mục đích cọp khi đã bị mắc kẹp, không thể lôi kẹp đi mất. Chuyện cọp bị kẹp kẹp cứng vào chân, không đi được, chỉ  nằm một chỗ chờ chết thì lớp người như ông Nguyễn Tửu từng chứng kiến quá nhiều lần. "Như nội ở làng Dùi Chiêng, hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 năm nào cũng có cọp bị mắc kẹp. Năm nhiều có thể lên đến ba, bốn con!".
Sinh thời, cả ông Phạm Bá Doãn và ông Hội Hồng đều là những người nổi tiếng "sát cọp". Cũng vì vậy mà danh xưng "làng bắt... cọp", tức làng Dùi Chiêng, chẳng qua chỉ để nói đến hai cha con họ. Đặc biệt, khi bắt được con cọp nào, họ thường lấy "công" là bộ xương cọp. Tương truyền, gia đình ông Bá Doãn giàu nức tiếng ban đầu nhờ nấu cao hổ cốt. Ông có nhiều sáng kiến bắt cọp, từ sử dụng "chùa" đến kẹp gài cọp. Khi ông mất đi, con ông, tức ông Hội Hồng lên thay thế. Nhờ nấu cao hổ cốt, ông nhanh chóng giàu lên, mua ruộng đất, phát canh thu tô. Bấy giờ, vay ang lúa, chỉ  qua một mùa, trả thành ang rưỡi. Nghĩa là lời đến… 50% chỉ qua mấy tháng. Thế nên, người giàu càng giàu thêm. Còn dân nghèo, lỡ vay, nhiều khi trả hoài vẫn còn nợ. Sẵn tiền sắn bạc, ông Bá Doãn bỏ tiền ra xây đến ba ngôi nhà lầu. Tuy giàu, nhưng ông Bá Doãn và sau này là ông Hội Hồng, may thay, lại được dân làng cho rằng có lòng hào hiệp chứ không keo kiệt như những người khác!

1 comment:

Lam Huynh said...

Chào tác giả, tôi thấy ông viết khá nhiều bài đăng trên báo Đất Quảng, Quảng Nam v.v... và trên blog này của ông. Tuy nhiên, nhiều bài viết về Dùi Chiêng và về ông Bá Doãn có nhiều điều sai lệch khiến tôi buộc phải nhắc nhở ông. Ông Bá Doãn không phải giàu có nhờ vào nẫu cao hổ cốt và cho vay nặng lãi như ông viết. Ông cũng không phải tên thật là Phạm Doãn hay Phạm Bá Doãn. Gia đình tôi hiện còn nhiều ông bà là cháu nội, cháu ngoại của ông Bá Doãn, vẫn còn sống, sẵn sàng đối chất và cung cấp tư liệu gốc của gia đình để xác thật. Về phía ông, tôi đề nghị khi viết bài, cái gì ông không biết thì nên nghiên cứu, tìm hiểu kỹ chữ đừng tự suy luận hoặc chỉ nghe loáng thoáng ai đó kể lại rồi thêm thắt vào; như vậy sẽ mất đi tính chân thực của câu chuyện và làm cho bạn đọc hiểu sai.
Thân ái.