Wednesday, July 13, 2011

XE GIÓ LỤC BẮC…

Đến Lục Bắc, thuộc địa bàn Lục châu Hà Dục xưa, nay thuộc địa bàn các xã Đại Lãnh, Đại Hưng… huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, du khách sẽ ngỡ ngàng, thích thú khi phát hiện hình ảnh tưởng đã lùi vào quá vãng. Đó là hình ảnh những chiếc xe gió, hay còn gọi là xe nước đưa nước từ khe lên ruộng. Và, mấy ai được biết, sự ra đời của xe gió Lục Bắc nói riêng và vùng Lục châu Hà Dục gắn liền với câu chuyện kể khá lý thú…
Thời trước, cũng như nhiều vùng khác ở Quảng Nam, người dân địa phương vùng Lục Châu Hà Dục, sống về nghề nông. Tuy nhiên, do chưa có công trình thuỷ lợi, họ chủ yếu nhờ nước trời, năng suất bấp bênh. Năm được mùa, mỗi sào chỉ mươi ang lúa. Năm mất, chỉ vài ba ang. Thế nên, đời sống người dân rất cơ cực. Trước thực trạng ấy, có thể nói, sự xuất hiện của xe gió, một loại xe hoàn toàn làm bằng thủ công, có khả năng đưa nước từ dưới sông, dưới suối lên đồng ruộng, là một cuộc “cách mạng” trong sản xuất nông nghiệp thời bấy giờ. Và, người có công đưa xe gió về Lục Bắc là ông Quách Đại Thụ[1]. Tương truyền, vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một lần ông đi chơi, tình cờ phát hiện ở vùng hạ lưu sông Vu Gia, bà con đã biết chế tạo xe gió. Thấy hay quá, ông mới lặn lội đến làng Thanh Đơn, nay thuộc xã Đại Cường, huyện Đại Lộc, rước ông Hứa Thiệu và ông Hương Lưỡng, về làng Hà Dục Tây, làm xe gió. Là thợ cả, ông Hứa Thiệu, ông Hương Lưỡng đứng ra nhận thầu, rồi kêu thợ, chủ yếu thanh niên trai tráng trong làng, những người có sức khoẻ, lên rừng đốn gỗ, chặt mây... Các ông vừa hướng dẫn, vừa trực tiếp làm xe gió. Đầu tiên, ông Quách Đại Thụ thuê họ làm xe gió lấy nước tưới ruộng của ông và ruộng của bà con gần đó. Ngay mùa đầu tiên, nhờ có xe gió, năng suất lúa tăng lên gấp hai, gấp ba lần so với trước.

Xe gió lục Bắc. Ảnh Đ.Đ

Thế là một đồn mười, mười dồn trăm, đến mùa sau, những hộ có khả năng, tiền của thi nhau làm xe gió. Thời kỳ cao điểm, vào những năm 1960 trở về trước, cả vùng Đại Lãnh có không dưới ba, bón chục xe gió, cả loại xe lớn đưa nước từ sông Vu Gia lên và cả xe nhỏ đưa nước từ sông con, rồi nước từ khe lên đồng ruộng. Xe gió đưa nước từ sông cái lên, loại to nhất có 8 bánh, thông thường 4 bánh, hay 3 bánh. Xe gió ở sông con chủ yếu 2 bánh. Xe gió đặt ở các khe, suối, đường kính nhỏ, chỉ một bánh. Xe gió khi làm xong, coi như nước “trường lưu”, tức lúc nào cũng có nước đổ vào đồng ruộng. Thợ cả, thợ phụ làm xong, nhận một cục tiền coi như... xong nhiệm vụ, hoàn tất hợp đồng. Công làm xe gió tính theo lúa. Xe nhỏ khoán vài chục ang. Xe lớn có khi khoán cả trăm ang. Bên cạnh lúa, còn có tiền mặt, ít nhiều tuỳ theo thoả thuận của hai bên.
Sau khi hoàn thành, chạy thử, đạt yêu cầu, chủ xe gió trả tiền theo hợp đồng rồi phải thuê hai người: một người giữ xe và người kia làm tri đề. Người gữ xe có nhiệm vụ hàng ngày phải chăm sóc xe. Mùa lụt lội, phải tính nếu lụt lớn, phải báo với chủ kêu thêm người tháo xe ra, đem cất vào chỗ cao. Hết lụt, tiến hành lắp xe lại. Riêng anh tri đề có nhiệm vụ bảo dưỡng kênh mương, đưa nước vào từng đám ruộng. Về dân, ai lấy nuớc từ xe gió nào, đến mùa, phải trả lúa cho chủ xe gió đó. Thông thuờng, họ phải nộp 30% tổng sản lượng thu hoạch. Hễ thu hoạch đám ruộng nào, thợ cũng gặt hết, sắp sẵn trên bờ. Khi xong xuôi, chủ điền và chủ xe gió đều có mặt, cứ 10 bó, chủ điền cắt ra 3 bó cho chủ xe gió. Cứ đếm cho đến khi hết mới thôi. Thợ gặt phải gánh về cho chủ. Trong tổng số lúa thu hoạch được, chủ xe gió phải chi nhiều thứ, nhất là chi cho việc bảo dưỡng xe, tức mua tre, gỗ... thay thế những bộ phận hư hỏng. Rồi chi 10% cho người giữ xe và 5% cho anh tri đề. Còn lại phần chủ xe gió. Nhiều hay ít tuỳ vào chiếc xe ấy có mấy bánh, to hay nhỏ, tưới được bao nhiêu thửa ruộng.



Phong cảnh vùng quê xưa. Ảnh tư liệu
 

Từ chủ xe gió đầu tiên ở vùng Lục Bắc và cũng là người có nhiều xe gió nhất hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là ông Quách Đại Thụ. Kế đến là con ông, ông Quách Thái. Họ cũng là những gia đình giàu nức tiếng vùng Hà Dục xưa. Không chỉ gia đình họ Quách, Lục Bắc cũng xuất hiện hàng chục chủ xe gió như ông Xã Thao, ông Cửu Thoan, ông Hội Lầu, ông Hội Thơ, ông Cửu Phiếu, ông Hương Nha và cả ông... Hứa Thiệu, nguyên là thợ cả chế tạo xe gió đầu tiên ở Lục Bắc. Đặc biệt, ông Hứa Thiệu làm xe gió, chủ xe gió và cũng là người... chết vì xe gió. Nguyên năm ấy, có xảy ra trận lụt khá lớn. Do chủ quan, chưa tháo xe gió kịp nên nó bị nước lũ cuốn trôi. Tiếc của, ông mới boơ ghe, xuoi theo sông Vu Gia, xem thử xe gió tấp chỗ nào. Không ngờ, nước chảy xiết, ghe bị lật, ông trôi theo dòng nước. Người ta bảo, có khi ông... sinh nghề tử nghiệp. Cũng theo tương truyền, vào thời kỳ cao điểm của xe gió, vũng Đại Lãnh có không dưới ba mươi xe, cả lớn và nhỏ.
Có một câu chuyện người dân vùng Hà Dục nhớ mãi là hồi kháng chiến chống Mỹ, phát hiện chiếc xe gió không động cơ nhưng cứ chạy bất kể ngày đêm, lại đưa nước lên đồng ruộng, bọn Mỹ thấy lạ quá, mới đem máy ảnh lên chụp lại. Nhưng, đó cũng là thời kỳ máy nước dần dần thay thế xe gió. Sau ngày giải phóng, do khó khăn chung, hợp tác xã chủ trương làm lại xe gió. Nhiều bờ xe gió được phục hồi và phát triển. Hiện nay, máy bơm hoàn toàn thay thế xe gió. Tuy nhiên, ở nhiều thửa ruộng các công trình thuỷ lợi không thể vươn đến, người dân vẫn tiếp tục dùng xe gió, chủ yếu là những chiếc xe gió một bánh, nhỏ, còn gọi là xe khe, xe suối, chủ yếu đưa nước dưới các khe, suối lên tưới đôi ba sào ruộng. Có thể nói, đó là những chiếc xe gió cuối cùng còn sót lại trên vùng đất nổi tiếng với những chiếc xe gió đã đi vào... lịch sử này!



[1] Theo gia phả tộc Quách ở Hà Dục, ông Quách Đại Thụ sinh năm 1862 và mất năm 1942. Ông này nhà giàu, có một lúc đến... 5 bà vợ!


No comments: