Friday, January 3, 2014

TỪ MỘT GIẤC MƠ…

Làng Thái Đông, xưa còn có tên là An Thái xã, rồi An Khương xã, thuộc An Thái trung tổng, Lễ Dương huyện, Thăng Bình phủ, nay thuộc xã Bình Nam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, được khai phá từ khá sớm. Theo những tài liệu còn lưu lại thì năm 1558 các bậc tiền hiền của làng từ miền đất Nghệ An theo chân chúa Nguyễn Hoàng vượt đèo Hải Vân đến đây khẩn hoang, lập ấp. Những người có công đầu trong quá trình khai sơn phá thạch, theo gia phả còn lưu lại, là các ông Trần Công Lặng, Hồ Công Khiêm, Phan Phước Tiên, Nguyễn Đình Tân. Ngay từ thời… mở cõi, việc khai khẩn ruộng đất gặp rất nhiều khó khăn, gian khổ. Họ đã hao tốn bao mồ hôi, công sức để phát quang lau lách, cây cối, đẩy lùi thú dữ… biến vùng đất hoang vu, vắng bóng người, thành xóm, thành làng đông đúc người qua kẻ lại.

Đình tiền hiền Thái Đông. Ảnh Đ.Đ

Để ghi nhớ công đức những người khai sơn phá thạch, dân làng Thái Đông mới bỏ tiền của, công sức xây dựng ngôi đình, gọi là đình tiền hiền Thái Đông. Gọi là đình tiền hiền tất nhiên để thờ tiền hiền và thờ cả thành hoàng bổn xứ. Đồng thời, đến đời Gia Long thập bát niên, tức năm Gia Long thứ 18, năm 1819, các vị chức sắc cùng với thân hào nhân sĩ của Thái Đông, bấy giờ gọi là An Thái xã, mới làm một bản phổ hệ của làng, gọi là “Tôn hiền phối ý” (尊賢配意), nôm na là bản gia phả của những vị tiền hiền, hậu hiền, với mục đích “cố niệm tiền hiền hữu công khai khẩn/ hậu hiền thuật tác sáng tạo cơ đồ”. Bản phối ý nêu tên những bậc tiền hiền, hậu hiền có nhiều công đức trrong quá trình dựng làng, lập ấp, số ruộng công của làng, ghi nhớ ngày tháng giỗ chạp… Tương truyền, bản phối ý được làm thành 4 bản cho 4 tộc tiền hiền, hậu hiền là các tộc Trần, Hồ, Phan, Nguyễn giữ. Ý của ông bà là đề phòng khi tộc này vì lý do gì đó, bị mất hay thất lạc phối ý, vẫn còn có phối ý của tộc khác. Thế nhưng, do nhiều nguyên nhân, bản phối ý của các tộc Trần, Hồ, Nguyễn giữ không còn.
Tuy nhiên, hồi nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tộc Phan, một trong bốn tộc tiền hiền ở Thái Đông, lại là tộc nghèo nhất. Bấy giờ, cháu đích tôn của tộc Phan nghèo đến mức phải.. di dân. Tức đi làm ăn xa. Trước khi đi, người cháu bèn bắc thang lên lấy cái ống giang, tức cái ống bằng tre, ngoài quấn dây, bên trong có chứa tài liệu gì mà chính người cháu cũng không biết. Thì có gì đâu, đời cha thất học vì nghèo, đời con cũng thất học nốt. Thế cho nên, dẫu có lấy ra thì chỉ thấy chữ mà không biết chữ làm sao đọc? Cứ cha để lại thì con giữ kỹ. Vậy thôi. Rồi, đến lúc nghèo quá, phải đi di dân, người cháu không còn cách nào khác là mang ống giang đi gửi nhà ông Xã Vịnh, lý trưởng Thái Đông lúc bấy giờ.

Tôn hiền phối ý. Ảnh Đ.Đ

Người cháu đưa ống giang, thú thật với ông Xã Vịnh, rằng “không biết ông bà để lại cái chi đây. Có chi tui cũng không biết. Mà tui chừ nhà nghèo quá, lại phải đi xa, để trong nhà sợ dột, hư mất, mang tội với ông bà. Thôi tui gửi nhờ chú, chú cất giùm rồi chừng mô tui về được hẳn hay”. Gửi gắm rồi, người cháu vào miền trong làm ăn. Ông xã Vịnh nhận xong, cẩn thận để lên kèo, cất. Chính ổng cũng không chú ý, xem thử cái gì. Hơn thế nữa, với ông,chuyện đó chẳng can hệ, tìm hiểu làm gì cho phí sức.
Sau khi ông cháu tộc Phan đi di dân rồi, bận bụi nhiều chuyện đời thường, ông Xã Vịnh lại quên khuất mất ống giang kia. Đến chừng năm ba bữa sau, đang ngủ ngon, ông thấy có một ông già già, râu tóc bạc phơ, ra dáng tiên phong đạo cốt, mặc áo sọc xanh vào, nói với ông rằng “Họ gửi đồ mi, mi không được cất”. Nói vậy rồi ông đi mất. Sáng mai ngủ dậy, nhớ lại giấc chiêm bao kỳ lạ đêm qua, ông mới kể cho bà vợ. Nghe xong, vợ ông phì cười mà rằng “Ông già rồi máu nó biến đi, thấy tầm bậy, chứ ông giữ chi của ai?”. Nghe vợ nói vậy, ông thấy cũng có lý, ừ, máu mình đã… già rồi, làm sao bằng máu bọn trẻ, thấy tầm bậy, thấy lung tung là phải. Và, ông cũng nhanh chóng quên đi, không để ý đến nữa.
Nhưng, khoảng chừng năm ba bữa sau nữa, cũng vào lúc đang ngủ, không hiểu sao, ông lại thấy chính ông già bữa trước vào nhà, nói lại y như lời hôm trước rằng “Họ gửi đồ cho mi, mi không được cất”. Sáng mai, tỉnh dậy, ông có cảm giác hơi sờ  sợ. Lần một không nói làm gì. Lần hai ắt có chuyện. Không thể trùng hợp được. Ông bèn kể lại vợ. “Tui lại thấy lần nữa bà ơi. Mà tui nghĩ cũng không ai gửi chi hết, chỉ có thằng nớ gửi cái ống giang, để tui đem xuống coi thử thử, chứ tui có giữ cái chi của ai mô”. Bà vợ gật gù, cho là phải. Ông lấy ống giang đem xuống, mở ra thì thấy giấy tờ của ông bà để lại. Xem kỹ, hóa ra là bản “Tôn hiền phối ý” các tộc họ ở Thái Đông mà tộc Phan còn giữ được.
Mừng quá, ông mới đem xuống đưa cho ông Trần Bộ giữ. Ông Trần Bộ người tộc Trần, cao tuổi nhất và cũng là người thông hiểu chuyện làng, chuyện xóm, lại giỏi chữ Nho. Bấy giờ, ông già lắm nhưng trí óc còn minh mẫn. Tương truyền, ông sống đến… 130 tuổi. Và, từ cổ chí kim, ở làng Thái Đông, chưa ai sống lâu như ông, thọ như ông. Trên cơ sở bản gia phả còn lưu lại, các tộc mới sao ra. Vậy là, từ một giấc mơ kỳ lạ, ông Trần Vịnh đã phát hiện ra bản  “Tôn hiền phối ý” quý giá, tưởng đã thất lạc từ lậu.