Hàng năm, cứ đến ngày 12 tháng 2 âm lịch, người dân
làng Thu Bồn, xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, lại tổ chức lễ hội gọi là Lễ hội Bà
Thu Bồn, gọi tắt là Lệ Bà. Đặc biệt, xung quanh một trong những lễ hội nổi tiếng
nhất, đình đám nhất của Quảng Nam có nhiều câu chuyện kể dân gian khá lý thú,
hấp dẫn…
1. Về sự tích Bà Thu Bồn, có nhiều
truyền thuyết khác nhau. Một truyền thuyết cho rằng Bà là nữ tướng Chăm, bị vua
Lê đánh bại, phải chạy về làng Thu Bồn, bị ngã voi và chết. Lại có truyền
thuyết kể Bà nguyên là công chúa con ông vua Mây, cháu bà chúa Lồi, khi bị giặc
bao vây kinh thành, vua và công chúa cưỡi ngựa chạy lên Phường Rạng và ngã ngựa
mất, xác công chúa trôi về làng Thu Bồn. Một truyền thuyết khác thuật rằng Bà
là con của một phú
hộ. Khi mới lọt lòng, Bà có một mái tóc dài ngang lưng, hai hàm răng ngọc ngà
đẹp như hoa. Lên 5 tuổi, Bà biết dùng các loại lá, rễ cây trong vườn để chữa
bệnh cho người và gia súc. Đến 50 tuổi, Bà mất… Có thể nói, đó là những truyền
thuyết, huyền thoại được lưu truyền qua nhiều đời. Tuy mất, nhưng Bà rất hiển
linh, nhiều lần ra tay cứu nhân độ thế. Bà cai quản một vùng rộng lớn nằm dọc
theo sông Thu Bồn, từ Duy Xuyên đến Đại Lộc, kể cả vùng tây huyện Quế Sơn. Lâu
Lâu, Bà mới về một lần. Khi bay về, Bà
bay ban đêm, trời lại có quầng sáng như ngọn lửa. Bà bay từ núi Chúa, tức Hòn
Đền ở Quế Sơn qua đất Duy Xuyên, đến núi An Định ở vùng tây Đại Lộc. Hình dáng
Bà lúc ấy như dải lụa, mềm mại uyển chuyển. Cũng theo chuyện kể, khi dân Việt
từ đất Bắc kéo vào Thu Bồn, vùng đất này hãy còn hoang vu. Hồi đó, chỗ xây lăng
Bà Thu Bồn có một cái hang rất sâu. Nghe nói không có nhà. Nhưng có trại lợp
bằng lá kè. Đặc biệt, theo lưu truyền, thời xưa, ngay lúc mới đến lập nghiệp,
ông bà thấy cứ đến ngày 12 tháng 2 âm lịch, người Chiêm tổ chức lấy nước từ
sông Thu Bồn rước về Trà Kiệu để cúng nên khi đến lễ hội Lệ Bà, họ bắt chước
làm theo, tức ngoài lễ vật, cũng tổ chức rước nước để cúng như người Chiêm[1].
Lăng Bà Thu Bồn. Ảnh Đ.Đ |
2. Xong phần lễ, đến phần hội.
Người ta tổ chức đua ghe, rồi hát bội. Sôi nổi nhất là đua ghe. Tùy theo “túi tiền” và tùy theo năm, làng tổ chức
đua nhiều hay ít. Đua nhiều thì đua đến… 8 vòng đôi. Ít cũng 6 vòng đôi. Ngoài
đội đua ghe ở địa phương, làng còn mời đội đua ghe ở một số địa phương khác như
đội đua các vạn Nồi Rang, Bình Yên, Trà Linh, Chợ Được, Hội An… đến tham gia.
Giải thưởng có tiền và cờ. Khi đua, có đặt bàn án, có trống lệnh. Không khí
nhộn nhịp. Hai bên bờ sông, bên ni là làng Thu Bồn huyện Duy Xuyên, bên kia là
làng Phú Thuận huyện Đại Lộc bà con xem đông nghịt, hò reo cổ vũ rầm trời. Hát
bội gần như là sinh hoạt không thể thiếu ở lễ hội Bà Thu Bồn hồi nửa đầu thế kỷ
XX trở về trước. Làng tổ chức hát ban ngày, hiếm khi hát ban đêm. Nhiều khi
dưới sông có đua ghe đồng thời trên bờ cũng tổ chức hát bội. Cho nên, mới có
câu "Trên bờ hát bội dưói thuyền bơi
đua". Lúc ấy, ai muốn “coi” hát
bội thì “coi”, ai muốn “coi” đua ghe thì… “coi”. Thường, chỉ hát vài
ba ngày, sau khi hết “hợp đồng” thì
thôi. Các gánh hát, ngoài tiền hát theo “hợp
đồng”, họ còn có thêm tiền thưởng. Gánh nào hát hay thì được thưởng nhiều.
Hình thức thưởng, xưa gọi là “thướn”,
cũng khác. Hễ đến đoạn nào thấy quá “tuyệt”,
dân mới ném thẻ để “thướn” lên sân
khấu. Diễn viên đang hát nhặt thẻ. Thẻ có thẻ con và thẻ cái. Một thẻ cái bằng
mười thẻ con. Chỗ hay vừa ném thẻ con, cưc hay mới ném thẻ cái. Người ta tính
thẻ con bao nhiều tiền, thẻ cái bao nhiêu, cứ thế bao nhiêu thẻ đổi lấy bao
nhiêu tiền. Thỉnh thoảng, cũng có đôi người không ném thẻ mà ném… tiền lên,
diễn viên cũng nhặt. Nói chung, khán giả cho gì họ cũng nhận. Cho càng nhiều,
chứng tỏ họ hát càng hay, có sao đâu! Ngoài đua ghe, hát bội, còn có đánh cờ, đánh bài lú và cả đánh xóc dĩa ăn
tiền. Nhưng đây là những trò chơi làng không đứng ra tổ chức, chẳng qua, một số
người lợi dụng cơ hội bày trò ăn thua mà thôi.
Bia Lăng Bà. Ảnh Đ.Đ |
3. Xung quanh Lệ Bà có chuyện lạ. Nguyên đất ruộng
công ở làng nhiều. Thế cho nên, tiền hiền làng được tự một mẫu tư đất. Đến ngày tế tiền hiền, làng lấy số hoa lợi từ
mấu tư đất này để chi phí. Trong lúc đó, tiếng là làng có lễ hội Bà Thu Bồn lớn
nhưng lại không có đất tự. Rốt cuộc, dân làng phải đóng góp. Mãi
sau này, ở làng Phường Chào, có một người lên đồng bảo với người cháu của bà
Phường Chào rằng Bà Thu Bồn không có đất tự. Người cháu bèn đem tiền qua mua đất
cúng Bà Thu Bồn. Ông này mua mẫu bảy đất để “tý
tự”[2] cho Bà Thu Bồn. Đó
là nguyên do mà hàng năm, khi tổ chức lễ hội Bà Thu Bồn, làng mới mổ con trâu,
lấy một miếng thịt vai to như cái khay với hai đòn bánh tét rồi sai anh Giáp, tức
anh chuyên đi rao ở làng, đem qua kỉnh cho người cháu đã mua đất để “tí tự” cho Bà Thu Bồn. Khi đi kỉnh,
làng viết một cái phiếu, trên đó ghi miếng thịt ấy dày bao nhiêu, dài bao
nhiêu, cân nặng bao nhiêu. Người ta sợ anh giáp “lẻo” mất chút ít. Chuyện kỉnh thịt trâu ngày lễ hội diễn ra hàng mấy
chục năm trời, sau này mới bỏ. Lại có truyền thuyết kể rằng xưa trong lăng Bà
có hai con tít to bằng bắp vế (!?). Đặc biệt, hai con tít này miệng ngậm hai cục
ngọc to như nắm tay. Bấy giờ, có thằng Tây nổi máu tham. Nó quyết lấy cho bằng
được. Nó cũng không tin Lăng Bà linh thiêng. Thế là nó đan một cái mủng chai
to, đổ nước vào, bắt con gà làm thịt, để con gà lên. Loài tít thấy gà thì bỏ cục
ngọc, bò đến ăn. Cục ngọc rớt xuống nước, biến mất tăm. Cặp tít sau đó chết
trong lăng.
Bên trong Lăng Bà. Ảnh Đ.Đ |
4. Cũng vào quãng nửa
cuối thế kỷ XIX, ở ngoài kinh đô Huế, có phu nhân của vị quan nọ bị bệnh đã
lâu, chữa hòai không khỏi. Nghe tiếng lăng Bà Thu Bồn linh thiêng, bà mới lặn lội
vào xin thuốc. Vậy mà khỏi. Vị quan nọ mừng quá, đem đôi xuyến vàng với hai cái
trang dài thước năm Tây vào cúng lăng Bà. Thường thường, khi làm lễ, trên bàn
thờ, người ta mới đem cặp xuyến ra treo lên để cúng. Còn những ngày khác, họ đục
lỗ trong cây gỗ trên bàn thờ để cất cặp xuyến. Làng không ai giữ đôi xuyến vàng
này. Cũng không ai dám lấy trộm. Họ tin Bà linh thiêng, không thể làm điều xằng
bậy được. Bà mà nổi giận thì cầm chắc cái chết. Dân ta sợ, nhưng Tây không sợ.
Thế cho nên năm nọ, có hai thằng Tây lên Thu Bồn với một thằng thông ngôn. Cả
ba đi bằng ca-nô. Hai thằng Tây đậu ca-nô ngoài gành rồi vào lăng Bà, lén lấy cặp
xuyến vàng. Kỳ lạ thay, khi ra gành, không hiểu sao tự nhiên cả hai như bị ai
đó kéo mạnh, làm nhào đầu xuống nước mà chết. Làng mới báo lên quan trên. Lúc
đó, cũng không ai biết hai thằng này lấy trộm cặp xuyến trong lăng. Sau này,
khi thắp hương ở Lăng Bà, người ta mới rõ mọi chuyện. “Đáng đời, ai bảo đụng đến Bà!”. Họ bảo nhau. Và, với dân làng Thu
Bồn nói riêng, Điện Bàn nói chung, cũng như người dân ở Đại Lộc, Duy Xuyên, Quế
Sơn và nhiều nơi khác đều tin vào sự linh thiêng của Bà thông qua những chuyện
kể mang màu sắc huyền thoại của một thời chưa xa…
No comments:
Post a Comment