Mấy chục năm trở về trước, khách thương hồ quanh năm
suốt tháng xuôi ngược trên sông Thu Bồn mấy ai không biết địa danh Phường Rạnh,
nay là làng Trung An, xã Quế Trung, huyện Nông Sơn, một vùng đất nằm ở vùng cực
tây Quảng Nam, bấy giờ còn hoang vu, núi đồi trùng điệp. Theo tư liệu còn lưu
lại, Phường Rạnh được khai phá từ rất sớm, dưới triều Thái Đức nhà Tây Sơn…
Ở Trung An có ba tộc tiền hiền là các
tộc Nguyễn, Trần và Trịnh. Các tộc đều đến lập nghiệp từ thời Tây Sơn. Trong đó,
tộc Nguyễn đến đầu tiên. Nhưng, do nhiều nguyên nhân, hiện nay, tộc này không
còn con cháu nối dõi. Sau tộc Nguyễn là tộc Trịnh và tộc Trần. Theo chuyện kể,
hồi ấy, tộc Trịnh vào bằng đường biển. Khi đi, có ba anh em. Đầu tiên, họ lập
nghiệp ở làng Hòa Mỹ nay thuộc quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Sau đó, không
biết vì lý do gì, họ đi tiếp vào Quảng Nam. Một ông chọn mảnh đất nay là xã Đại
Chánh, huyện Đại Lộc; một ông đến làng Thu Bồn, nay thuộc xã Duy Tân, huyện Duy
Xuyên còn ông thứ ba vào tận Phường Rạnh, lập nghiệp. Còn tộc Trần, tương truyền,
theo vua vào Nam ,
đến Bình Định lập nghiệp. Rồi, khi phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ, ba cha
con tộc Trần gồm cha là Trần Văn Tam và hai con là Trần Văn Hiền và Trần Văn Huấn
quay ra Quảng Nam, lên tận vùng đất sau này có danh xưng là Trung An, sinh sống.
“Nghe truyền khẩu lại là họ đi theo lệnh
của bà vợ ông Trần Văn Tam... Không biết bà ni răng có quyền hành to như rứa.
Cũng nghe nói hồi đó, người cha Trần Văn Tam già rồi, còn người anh Trần Văn Hiền
lại quá hiền. Cho nên, em là Trần Văn Huấn mới đứng ra làm giấy tờ. Kết cuộc,
sau này chính người em đứng tên tiền hiền làng cùng với các tộc Nguyễn và Trịnh!”[1].
Gia phả tộc Trần. Ảnh Đ.Đ |
Đặc biệt, không chỉ truyền khẩu, tộc
Trần ở Trung An còn giữ bản gia phả khá đầy đủ. Bản gia phả bằng chữ Hán, được
lập vào năm “Thành Thái tứ niên, thất
nguyệt, nhị thập nhật, lục cung”, nghĩa
là vào ngày 20 tháng 7, năm Thành Thái thứ tư, tức năm 1892. Như vậy, theo tư
liệu, đây là bản gia phả được sao lại, chép lại từ một bản gia phả có từ trước.
Điều đặc biệt, gia phả tộc Trần cũng ghi lại khá rõ nét nguồn gốc của tộc Trần.
Và, đúng như lời kể, người đầu tiên tộc Trần vào Nam là ngài Trần Văn Tam. Thoạt
tiên, ngài vào định cư tại Bình Định, trú ở xã Mộc Bài. Bấy giờ, ở Mộc Bài, tộc
Trần là tộc lớn. Khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ, trước khói lửa chiến
tranh, gây ra nhiều thảm cảnh đau lòng, theo lịnh từ người mẹ, tên là Nguyễn Thị,
ngài dẫn gia quyến đi lánh nạn ở chỗ này. Bản gia phả viết “Tiên thế vi Bình Định tỉnh, Mộc Bài xã, nhứt cự tộc. Tiên linh húy
Tam, nhân Tây Sơn binh tiễn chi tế dữ, lịnh từ Nguyễn Thị, khiết quyến tị cư vu
thử nhân tịch”. Nhưng đến lập nghiệp ở vùng đất Trung An lúc bấy giờ không
chỉ có mình tộc Trần mà còn có hai tộc khác là tộc Nguyễn và tộc Trịnh. Thế là
ngài cùng với tiền hiền hai tộc Nguyễn, Trịnh, tức tam tộc, cùng xin lập bộ,
nghĩa là lập sổ sách đất đai của làng “Thử
thìn y ông dữ Nguyễn Trịnh tam tộc đồng thảo khất kiến bộ”… Có thể nói, qua
những ghi chép nói trên, chúng ta có thể khẳng định vùng đất nay có danh xưng
là Trung An, nằm trên địa bàn xã Quế Trung, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam được
khai phá từ khá sớm, vào cuối thế kỷ XVIII. Đây cũng là thời điểm mà một số
làng xã khác ở huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam , hình thành.
Về nguồn gốc danh
xưng Trung An, có câu chuyện kể khá lý thú và hấp dẫn rằng thời trước, khi
người Việt đến lập nghiệp, ở đây đã có Dinh Bà Phường Rạnh, rất linh thiêng.
Ngày nọ, trong làng có ông gọi là ông Trùm Tuất, người họ Nguyễn, khá giàu, nhà
có của ăn của để, bị mất mấy con trâu. Tiếc của, ông mới quyết chí đi tìm cho
bằng được. Nhưng, ông chưa kịp bước ra khỏi bìa làng thì Bà đã “đạp đầu
ngang”, tức mượn xác người sống, hiện lên, nạt nộ: “Nhà người đi mô? Nhà
ngươi đừng có dại, chết như chơi. Bọn cướp đã chuẩn bị sẵn dao kiếm, nhà ngươi
đến chỉ thiệt thân. Nhà ngươi về đi. Còn về phần bọn cướp, nhà ngươi đừng lo.
Hễ kẻ nào trung thì được an mà ai ngang bướng, đi trộm cướp, sẽ không ra chi”.
Từ câu chuyện này, người dân mới lấy tên Trung An đặt tên cho làng với mong
muốn bà con sống ở vùng đất này luôn là những người“trung thực” nên được
hưởng sự “an lành”.
Một đoạn trong gia phả. Ảnh Đ.Đ |
Danh xưng Trung An
gần như chỉ tồn tại trên mặt giấy tờ, khế ước. Còn tên bình dân là Phường Rạnh.
Cũng như Trung An, danh xưng Phường Rạnh cũng có nguồn gốc, xuất xứ khá đặc
biệt. Theo đó, chữ “Rạnh” xuất phát từ con trạnh, một loại động vật có
hình dáng như con rùa nhưng rất to, có con to bằng cái nong, sông dưới nước1.
Nguyên hồi nửa đầu thế kỷ XIX trở về trước, du khách lẫn tầng lớp thương hồ ngược
lên thượng nguồn sông Thu Bồn khi đi ngang đoạn sông chảy qua làng Trung An
thỉnh thoảng hay bắt gặp con trạnh trồi lên, có lúc nhiều đến mức đặc kín sông,
khiến ghe thuyền phải tránh. Thế cho nên, người ta mới gọi làng ven sông này là
Phường Trạnh. Lâu ngày, họ mới đọc “chệch” là Phường Rạnh. Phường (坊), trong chữ Hán, còn có nghĩa là “làng”. Riêng “Rạnh”, tức
từ trạnh mà ra. Thế cho nên, Phường Rạnh còn có thể gọi nôm na là làng Trạnh!
Di tích Lăng Bà ở làng Trung An. Ảnh Đ.Đ |
Nhưng dù Trung An
hay Phường Rạnh, mảnh đất này cũng bắt đầu được người Việt đặt chân lên lập
nghiệp cách nay gần 250 năm, từ triều Thái Đức nhà Tây Sơn. Thế cho nên trong
văn cúng tiền hiền nhằm tưởng nhớ những người đã có công khai sơn phá thạch, lập
làng lập xóm, người dân làng Trung An ghi rõ “Xưa đất Bắc
dựng xây tổ nghiệp/ Nay trời Nam
kiến trúc cơ ngơi/ Chí tang bồng
ngang dọc bốn phương/ Tài thao lược
kinh luân một cõi/ Đất Phường
Rạnh thời xưa triều Thái Đức/ Ơn tiền nhân
khai quốc thổ lắm công trình…”.
[1]
Ông Trần Văn Hai, sinh năm 1948, thôn Trung An, xã Quế Trung, huyện Nông Sơn,
tỉnh Quảng Nam, kể.
No comments:
Post a Comment