Tuesday, January 31, 2012

KÝ ỨC DÙI CHIÊNG...

Tương truyền, thôn Dùi Chiêng, xã Quế Phước, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam, hồi nửa đầu thế kỷ XX, hãy còn là vùng rừng thiêng nước độc, chỉ lèo tèo vài chục ngôi nhà tranh đơn sơ, giản dị nằm cheo leo, men theo vách núi. Khung cảnh thâm u hoang vắng. Rừng gần sát với nhà. Sát đến mức nhiều khi người ta ngỡ là nhà ở trong rừng. Bởi từ nhà, chỉ  vài bước chân là thấy núi, thấy rừng, nghe tiếng chim kêu, vượn hú. Đặc biệt, Dùi Chiêng xưa có nhiều cọp và sớm nổi tiếng là làng bắt… cọp. Cọp nhiều vô kể. Cho nên, chúng hay lẻn vào làng bắt trâu, bắt cả người. Và, trong cuộc đấu tranh sinh tồn, cũng giống như chuyện cổ tích, người bao giờ cũng thắng, cũng chế ngự được cọp dữ. Trong đó, nhân vật làm nên kỳ tích ở vùng đất núi non trùng điệp này là ông Phạm Bá Doãn. Kế đến là ông Hội Hồng, con ông Bá Doãn.

Đường lên Dùi Chiêng, chập chùng đồi núi. Ảnh Đ.Đ

Bấy giờ, khi trời vừa tắt nắng, không khí lạnh từ rừng sâu, núi cao bắt đầu tràn xuống, nhà nào nhà nấy cửa đóng kín mít. Không ai dám ra ngõ. Người ta sợ đến mức đêm đến phải để bẹ lá chuối từ trong nhà ra ngoài để lỡ có mắc tiểu thì khỏi ra ngoài, cứ nhè bẹ cuối mà tiểu tiện. Còn đại tiện cũng trong nhà, sáng mai phần ai nấy lo "giải quyết hậu quả". Nhiều đêm nghe tiếng cọp đi qua đi lại mà lạnh cả xương sống. Nhớ chuyện cũ, lớp người ở tuổi xưa nay hiếm tại làng Dùi Chiêng vẫn còn chưa hết rùng mình. Khi ấy, họ hãy còn nhỏ, thấy cũng thấy, rồi cũng nghe người lớn kể lại. Đủ hết. Trong đó, có lắm chuyện sởn tóc gáy. Nhất là chuyện nửa đêm cọp về, lấy chân cạ cạ vào vách phên bằng đất. Bấy giờ, cọp nhiều, dân lại ít, chúng dạn dĩ lắm, về luôn. Người ta nói rừng động. Chẳng si biết rừng động hay không. Nhưng nhiều năm cọp về nhiều hơn. Rồi họ bảo do “động rừng”.
Cũng chính tại làng Dùi Chiêng, đã bao đời nay có một cái miếu thờ mà người dân địa phương quen gọi là dinh Ông Trùm. Về sự tích dinh, có câu chuyện khá lý thú và hấp dẫn, được lưu truyền trong dân gian qua nhiều đời rằng hồi làng mới lập, có một ông gọi là ông Trùm Hò. Không ai biết ông họ chi và từ đâu đến. Cũng theo tương truyền, ông Trùm Hò có dáng người cao lớn, vạm vỡ, giỏi võ nghệ, sức địch muôn người. Thế cho nên, dân làng sợ cọp nhưng ông thì không. Ngày ngày, ông  vác cái rựa, cái rìu lên núi chặt cây gỗ về bán kiếm cơm. Ông thường đi một mình. Hôm đó, ông đang trên đưòng vác cây về thì gặp cọp. Ông bèn bỏ rìu, tay cầm rựa thủ thế. Cọp gầm lêm một tiếng long trời lở đất trước khi nhảy vồ "con mồi".  Ông nhanh nhẹn lách qua bên kia, tránh được. Ngay sau đó, cả hai, cọp và người, quần nhau đánh suốt một ngày ròng rã. Cứ cọp nhảy sang bên trái thì ông nhảy qua bên phải và ngược lại. Ông vừa nhảy vừa lợi dụng thời cơ chém cọp. Chiều dần tắt nắng. Cuối cùng, cả hai vừa khát nước vừa kiệt sức rồi chết.

Dùi Chiêng. Ảnh Đ.Đ

Sự kiện ông Trùm Hò đánh nhau với cọp dân làng không ai biết. Bấy giờ, khu vực sau này trở thành Dinh Ông Trùm là cửa rừng, cây cối rậm rạp, heo hút, vắng bóng người qua lại. Mãi đến sáng hôm sau, khi đi lên núi, bà con mới phát hiện. Lúc đó, xác cọp và người đều đã đông cứng. Dân làng bèn lập miếu thờ. Đặc biệt, trên bàn thờ có để hai cái đầu. Một đầu người và một đầu cọp. Đầu người là của ông Trùm Hò. Còn đầu kia là của con cọp nọ. Hàng năm, cứ đúng vào ngày lễ "khai truông", cũng là lễ "khai hạ" , dân làng tổ chức cúng thần núi. Người ta mổ 1 con heo, để y nguyên cả đầu cẳng, lòng… đầy đủ, cúng cùng với những lễ vật khác như chè, xôi, hương đèn. Sau khi cúng, họ cắt đầu heo ra, giao cho anh giáp làng nhiệm vụ bưng vào Dinh Ông, để đầu heo lại. Cứ để đúng ba ngày ba đêm. Nếu sau đó cọp không xuống núi để ăn thì anh giáp được hưởng đầu heo này. "Tui nghe kể có năm cọp xuống ăn nhưng cũng có năm không xuống". Năm 1964, khi trận lụt khủng khiếp năm Thìn xảy ra, hai đầu để thờ, đầu cọp và đầu người đã bị nước lũ cuốn trôi. Dinh cũng bi hư hại nhiều. Hiện nay, dinh chỉ  còn trơ "xác", tức ba bức tường nham nhở, phần mái đã tốc, được che chắn tạm bợ. 
Có thể nói, chuyện ông Trùm Hò đấu nhau với cọp là chuyện hi hữu. Làng Dùi Chiêng duy nhất chỉ có ông dám làm chuyện "động trời" này. Còn những gia đình khác đối phó với cọp bằng cách đánh thanh la, gõ mõ, gõ… nồi và bất cứ vật dụng nào phát ra âm thanh để xua đuổi chúng. Tuy nhiên, đã là làng… bắt cọp tất nhiên, gõ chỉ là cách đối phó bị động, còn phải có người giỏi bắt cọp. Nhưng bắt bằng mưu trí, chứ không ai dám "đánh"  nhau với cọp như ông Trùm Hò, để cả người và cọp đều cùng chung số phận. Người giỏi "bắt" cọp và bắt cọp có tiếng đầu tiên là ông Phạm Bá Doãn. Để bắt cọp, ông làm một thứ bẫy mà người địa phương quen gọi là "chùa". Dấu tích còn lại của những cái "chùa" bắt cọp này là một địa danh người ta gọi là kiệt Chùa, tức kiệt có "chùa" bắt cọp. "Chùa" không to, ngang gần 1 mét, dài khoảng 5 mét, hoàn toàn bằng cây săn, chắc, được chôn sâu xuống đất, phía trên cũng được cột kỹ, chèn đá to, làm sao để một khi cọp đã vào bẫy không thể vùng ra nổi. Trong chùa nhốt một con chó, ngăn lại. Cọp đi, nghe tiếng chó sủa, mò đến. Khi nó vừa vào thì bẫy sụp sụp xuống. Người ta chỉ  việc dùng giáo nhọn mà đâm cho đến lúc cọp chết mới thôi.
"Chùa" bắt cọp biến mất hồi cuối thập kỷ 1920, đầu thập kỷ 1930. Đó cũng là lúc ông Bá Doãn nghiên cứu làm cái kẹp gài cọp. Kẹp bằng sắt, nặng đến bốn, năm mươi ký, thường phải hai người khiêng. Bấy giờ, theo thói quen, dân làng Dùi Chiêng thường chăn thả trâu. Lúc đói mồi, cọp hay bắt trâu. Khi vồ được, nó tha vào rừng, ăn bộ lòng. Còn lại, nó giấu một nơi, chờ lúc đói, lại đến ăn tiếp. Nắm rõ thói quen "chết người" này, mỗi khi bị cọp bắt trâu bò, dân làng liền theo dõi, xem cọp giấu xác trâu ở đâu. Sau đó, họ đến nhờ ông Bá Doãn gài kẹp giùm. Để chắc ăn, ông Bá Doãn cho gài hai, ba cái kẹp. Gài xong, họ cột chặt kẹp vào gốc cây to với mục đích cọp khi đã bị mắc kẹp, không thể lôi kẹp đi mất. Chuyện cọp bị kẹp kẹp cứng vào chân, không đi được, chỉ  nằm một chỗ chờ chết thì lớp người như ông Nguyễn Tửu từng chứng kiến quá nhiều lần. Ở làng Dùi Chiêng, hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, năm nào cũng có cọp bị mắc kẹp. Năm nhiều có thể lên đến ba, bốn con.
Có thể nói, sau ông Bá Doãn, ông Hội Hồng, con ông Bá Doãn cũng là người nổi tiếng cả vùng tây Quảng Nam về khả năng dùng kẹp gài cọp. Không chỉ  gài ở Dùi Chiêng mà ở đâu có cọp, có người đến mời, ông đều nhiệt tình giúp đỡ. Có lần cọp bị mắc kẹp ở Sé, giờ gọi là làng Phước Hội, xã Quế Lâm. Nguyên hồi đó, có con cọp ra bắt trâu. Gia chủ theo dõi, rồi cho người lên báo với ông Hội Hồng. Khi cọp dĩ nhiên dính kẹp, bà con rủ nhau đi xem rất đông. Có ông nọ cũng vào. Bất thình lình, cọp gầm lên, nhảy vồ trúng, làm chết ngay tại chỗ, máu me đầy người. Dân làng hốt hoảng nhưng mạnh ai nấy la, không ai dám vào. Được tin, ông Hội Hồng xách súng lên ngay. Ông bảo giờ án mạng đã xảy ra, phải báo quan trước đã. Sau đó, ông yêu cầu làng lập biên bản, cam đoan rằng ông bắn cọp khi cọp đã vồ chết người. Ông sợ lỡ bắn có viên đạn nào trúng nạn nhân thì sẽ bị quy tội giết người. Khi biên bản làm xong, mọi người ký tên vào làm chứng, ông mới bắn. Cọp chết ngay tại chỗ.
Sinh thời, cả ông Phạm Bá Doãn và ông Hội Hồng đều là những người nổi tiếng "sát cọp". Cũng vì vậy mà danh xưng làng bắt cọp, tức làng Dùi Chiêng, chẳng qua chỉ để nói đến hai cha con họ. Đặc biệt, khi bắt được con cọp nào, họ thường lấy "công" là bộ xương cọp. Tương truyền, gia đình ông Bá Doãn giàu nức tiếng ban đầu nhờ nấu cao hổ cốt. Ông có nhiều sáng kiến bắt cọp, từ sử dụng "chùa" đến kẹp gài cọp. Khi ông mất đi, con ông, tức ông Hội Hồng lên thay thế. Nhờ nấu cao hổ cốt, ông nhanh chóng giàu lên, mua ruộng đất, phát canh thu tô. Bấy giờ, vay ang lúa, chỉ  qua một mùa, trả thành ang rưỡi. Nghĩa là lời đến… 50% chỉ qua mấy tháng. Thế nên, người giàu càng giàu thêm. Còn dân nghèo, lỡ vay, nhiều khi trả hoài vẫn còn nợ. Sẵn tiền sắn bạc, ông Bá Doãn bỏ tiền ra xây đến ba ngôi nhà lầu. Tuy giàu, nhưng ông Bá Doãn và sau này là ông Hội Hồng, may thay, lại được dân làng cho rằng có lòng hào hiệp chứ không keo kiệt như những người khác!

No comments: