Wednesday, January 4, 2012

SỰ TÍCH HÀ KIỀU

Ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, có một địa điểm khá nổi tiếng. Đó là Hà Kiều. Hà Kiều nay thuộc khối phố Hà Kiều, thị trấn Hà Lam. Hà Kiều, theo ông Nguyễn Công Xuân, sinh năm 1925, một trong những bậc lão làng của đất Hà Lam, ý chỉ một cây cầu ở Hà Lam.  Chữ “Hà” ý chỉ Hà Lam, còn “Kiều”, theo chữ Hán là cầu. Nghĩa là cầu ở Hà Lam. Cây cầu này bắc ngang qua bàu sen. Bàu sen lại có tên chữ là Hà Trì. “Hà” có bộ thảo ở trên cùng, nghĩa là sen. Còn “Trì” nghĩa là bàu nước. Nôm na là bàu nước có sen. Tương truyền, xưa kia, ở làng Hà Lam có một khe nước chảy, có sen mọc ở dưới khe, nên mới có tên chữ là Hà Khê. Ngoài chữ “Hà” như đã nói thì chữ “Khê” có nghĩa là khe nước. Khe nước này ngăn cách hai ấp là ấp Trung và ấp Thị. Để dễ dàng qua lại, dân làng mới bắt một cây cầu bằng tre ngang qua khe. Làm bắng tre, tức cây cầu trông rất đơn sơ, giản dị. Thế cho nên trong tấm bia Hà Kiều có khắc dòng chữ “Ngô hương Hà Khê hữu kiều cổ hý”, tức “Khe sen làng ta có một cây cầu”. Và, xung quanh Hà Kiều có sự tích khá hấp dẫn và lý thú.
Cầu Hà Kiều đã góp phần làm nên cảnh quan thơ mộng của một vùng quê. (Ảnh: tieulathangbinh.com)

Như đã nói, khởi thuỷ, làng Hà Lam có khe nước có sen mọc gọi là Hà Khê. Khe nước muôn đời vẫn là khe nước, nếu không có sự tác động của thiên nhiên hay của bàn tay con người. Hà Khê cũng vậy. Thế cho nên, Hà Khê biến thành Hà Trì là nhờ hai nhân vật khá đặc biệt. Đó là cụ Hà Đình Nguyễn Thuật và cụ Sơn Phòng Nguyễn Tạo. Từ nhỏ, hai cụ đã nổi tiếng học giỏi. Lớn lên, khi đi thi, hai cụ đều đỗ đạt cao, làm rạng danh làng xóm. Trong lúc cụ Nguyễn Tạo đỗ cử nhân thì cụ Nguyễn Thuật đỗ phó bảng. Cả hai được ra làm quan trải qua nhiều đời vua... Trong đó, cụ Hà Đình Nguyễn Thuật làm đến chức Đông Các Đại học sĩ, một chức vụ được xem như tứ trụ của triều đình Huế. Tuy làm quan lớn, nhưng với quê hương, hai cụ cũng rất có nghĩa với bà con, làng xóm. Tương truyền, cả hai cụ là những người khởi xướng, vận động bà con xây dựng công trình thuỷ lợi, dẫn nước tưới cho đồng ruộng, xây cầu khá chắc chắn để nhân dân dễ dàng qua lại.
Nguyên thời trước, để trồng lúa, người dân Hà Lam phải lấy nước ở khe nước tự nhiên chảy qua làng. Đó là Hà Khê. Nhưng nước khe làm sao đủ để tưới, nhất là trong những năm hạn hán? Không có nước, họ đành đứng nhìn cây lúa héo dần, chết dần. Hiểu được tình cảnh của dân làng, các cụ f ĐìnhHàmới khởi xướng đào khe sâu và rộng để dẫn nước từ sông Ly Ly vào, phục vụ sản xuất nông nghiệp. Dân làng ai nấy đều hăng hái tham gia. Kẻ góp sức, người góp công. Chẳng bao lâu sau, từ khe nước nhỏ có tên Hà Khê, khe đã biến thành bàu, tên chữ là Hà Trì, tức bàu sen. Gọi là bàu nhưng bàu này khá dài, lại uốn lượn thành chín khúc, nên người xưa còn gọi là cửu khúc Hà Trì. Từ khi công trình đào khe Hà Khê hoàn thành, nước từ sông Ly Ly chảy vào nhiều, tạo điều kiện cho người dân đưa nước vào đồng ruộng, góp phần cứu lúa, nhất là những năm khô hạn.
Bên cạnh việc vận động nhân dân xây dựng công trình thuỷ lợi, các cụ còn vận động nhân dân xây cầu. Theo tài liệu còn lưu lại thì vào năm Thành Thái thứ hai, tức năm 1890, cụ Sơn Phòng Nguyễn Tạo và cụ Hà Đình Nguyễn Thuật đề xướng lạc quyên để xây dựng lại cây cầu bắc ngang qua ấp Trung và ấp Thị. Nguyên cầu cũ là cầu tre, rất tạm bợ, lại xuống cấp, gây nguy hiểm cho người dân qua lại, đặc biệt trong mùa mưa bão. Cây cầu mới có ba nhịp, được xây dựng khá chắc chắn, xây cuốn, ở giữa lót ván nên có tên là cầu ván. Cũng từ đó, danh xưng Hà Kiều mới được hình thành. Đặc biệt, cụ Sơn Phòng Nguyễn Tảo đã góp tổng cộng 300 quan tiền, một số tiền khá lớn lúc bấy giờ để xây dựng công trình thủy lợi ở Hà Trì và bắt cầu Hà Kiều.
Hiện nay, cầu gỗ Hà Kiều không còn. Thay vào đó đó là chiếc cầu xi măng khá vững chắc. Tuy nhiên, ở Hà Kiều vẫn còn di tích quý còn lưu lại là tấm bia được lập thời Thành Thái thứ 12, tức năm 1900. Bia nói về việc làm cầu, ghi lại công  sức đóng góp của bà con, làng xóm, như ghi lại một dấu ấn lịch sử. Và, cũng cần chú ý, theo các bô lão làng Hà Lam, thời xưa, nhà cụ Hà Đình Nguyễn Thuật, còn gọi là cụ Thượng Hà Đình, một danh nhân nổi tiếng của xứ Quảng quay hướng ra cầu. Cổng nhà xây kháng trang cổ kính, bên bờ có hàng trúc ngày ngày soi bóng xuống bàu sen. Trước cảnh đẹp Hà Kiều, sinh thời, cụ Hà có sáng tác hai câu thơ “Thập lý  hà phong hương bất đoạn/ Bản kiều tây bạn thị ngô gia”. Nghĩa là “Mười dặm hương sen mùi còn thoảng/ Bờ tây cầu ván  ấy nhà ta”. Thế cho nên, xưa, theo cách nói dân gian, người ta thường gọi bàu sen, tức Hà Trì, là bàu cụ Thượng. Cụ Thượng ở đây là cụ Thượng Hà Đình!

No comments: