Hồi nửa đầu thế kỷ XX trở về trước, trên đoạn sông Vu Gia chảy qua xã Đại
Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, có một vạn chài đông đúc ghe thuyền. Đó
là vạn Phường Đông. Theo ký ức của lớp người cao tuổi lúc bấy giờ, van Phường
Đông có không dưới năm mươi gia đình nhưng làm đủ thứ nghề, từ chài lưới đến
buôn bán mắm muối, gạo chuối đến chở hàng thuê, rồi đánh bắt cá trên sông. Mỗi
gia đình mỗi nghề, sinh sống từ đời này sang đời khác…
|
Đánh cá ở Đà Nẵng hồi nửa đầu thế kỷ trước. Ảnh tư liệu |
Người ta không biết vạn Phường Đông xuất hiện từ bao giờ. Có lẽ là khi
mảnh đất dọc theo hai bên bờ sông Vu Gia được lưu dân Việt đến lập nghiệp, khai
phá đất đai, tạo dựng xóm thôn trù phú. Cùng với việc lập các ấp Nam, ấp Bắc…
thì chợ chiều Phường Đông ra đời, tạo điều kiện cư dân địa phương có nơi để mua
bán, trao đổi hàng hóa.
Theo ước đoán, vạn Phường Đông
xuất hiện muộn nhất cũng vào nửa đầu thế kỷ XIX. với ba tộc sinh sống là Võ,
Lê, Trần. Trong đó, tộc Trần vốn có nguồn gốc là dân vạn chài ở làng Phong Thử,
gặp mẹ ông, cũng là dân vạn chài ở Phường Đông. Thế là thương nhau rồi lấy
nhau. Sau đó, cha ông ở rể luôn... Do vậy, tộc Trần, so với nhiều tộc khác, có
thể gọi là tộc “ngụ cư”. Tuy nhiên, khác với dân trên bờ, hầu như không
có sự phân biệt đối xử giữa dân chính với dân ngụ ở vạn Phường Đông.
Khác với tộc Trần, hai tộc còn lại đều lập nghiệp từ rất lâu. Đáng chú ý,
tộc Võ đầu tiên họ vào Nam,
lập nghiệp ở Quảng Ngãi và cũng là dân hành nghề sông nước. Theo truyền khẩu,
khi giặc giã nổi lên, ông tiền hiền tộc Võ của vạn Phường Đông trước kia và
làng Mỹ Hảo ngày nay mới mang gia phả mà chạy. Cũng không biết nguyên nhân vì
sao lại chạy mãi vào Mỹ Hảo, rồi “định cư” ở vạn Phường Đông.
Hồi ấy, gia đình ông cđi theo đường bộ. Thời kỳ chống Mỹ, gia phả bị
cháy, mất luôn. Cho nên, hiện tộc Võ không biết từ đời ông tiền hiền tộc đến
đời ông Võ Khuê đã bao nhiêu đời. Chỉ biết, gia phả xưa, theo ông Võ Khuê, có
cả ấn của vua.
|
Một khúc sông Vu Gia. Ảnh Đ.Đ |
Ở vạn Phường Đông, chỉ có khoảng hơn mười gia đình sinh sống bằng nghề
đánh bắt cá. Xưa, người ta dùng lưới bằng gai. Gai trước là gai trồng, tới lứa
mới lột vỏ, đập, nhồi, làm thành từng cuộn. Mỗi cuộn nặng khoảng một lạng. Bà
con mua về, tước ra rồi đánh cho săn lại để đan thành lưới. Đan xong, bỏ vô nấu
với vôi cho “chín” gai đi… Nói chung, muốn làm lưới không đơn giản, phải
qua nhiều công đoạn. Lưới gai dĩ nhiên không đẹp và chắc bằng lưới cước nhưng
ngày trước, cá nhiều nên việc đánh bắt khá dễ dàng. Những gia đình làm nghề
đánh bắt cá có hai ghe, một ghe nhỏ để hành nghề và một ghe lớn để vợ con ăn ở,
sinh hoạt hàng ngày.
Ngư dân vạn Phường Đông làm một số nghề từ nghề bủa lưới, chươm, bủa câu
đến nghề đắp. Nghề bủa lưới chỉ sử dụng trong mùa nước lụt, diễn ra vào khỏang
tháng bảy, tháng tám âm lịch hàng năm. Đây là lúc cá từ trên nguồn theo dòng
nước lụt về để trong nà dọc bờ sông Vu Gia.
Xưa, trong “bộ nhớ” của các bô lão quen nghề sông nước, cá trên
sông Vu Gia nhiều vô kể. Chúng đi thành từng đàn. Lắm lúc lội xuống nà, cá đụng
“chưn”. Nghe sướng lắm... Lưới có bề rộng mét năm, dài đến ba, bốn chục
mét. Người ta mạnh ai nấy bủa. Có người bủa ngang, lại có người bủa dọc. Cá
trôi mắc lưới, quẫy mạnh. Khi phát hiện, ngư dân chèo ghe đến, nhấc lên, lấy
vợt… xúc cá. Cá mùa lụt chủ yếu cá trôi. Có nhiều con nặng năm, sáu ký.
|
Công cụ đánh bắt cá của ngư dân vạn Phường Đông. Ảnh Đ.Đ |
Thường, bắt cá xong, bà con phải lấy dây… xâu môi con cá rồi thả xuống
dưới nước để cá tự do bơi qua bơi lại. Khi muốn bán, chỉ cần kéo dây lên, gỡ
ra. Nhờ vậy, mỗi lần lụt, bắt cá xong, họ bán phải đôi ba ngày mới hết cá.
Trong các loại cá, cá to nhất là loại cá mà ngư dân vạn Phường Đông gọi
là cá chiên. Cá này cũng ở trên nguồn nhân mùa lụt trôi xuống. Nhưng hiếm khi
bắt được. Cá chiên dài gần mét, ngang hơn gang tay, miệng to như cá nhám. Khi
biết loại cá này mắc lưới, phải thủ thế cẩn thận. Chân đạp lưới, tay nắm hai vi
cá rồi hất nó lên ghe. Hết nghề bủa lưới đến nghề bủa câu, thường trùng vào các tháng cuối năm. Có câu sưa và
câu dày. Câu sưa lưỡi câu to, câu dày lưỡi câu nhỏ. Nghề bủa câu chuyên bắt các
loại cá như cá lấu, cá leo, cá chạp, cá mương, cá chày… Nhưng cá bắt được nhiều
nhất là cá bống. Ở van Phường Đông thời trước người bủa câu giỏi nhất là ông
Lợi. Ông này có nhiều kinh nghiệm. Bất kỳ bủa ở đâu, ông cũng kiếm được nhiều cá
hơn người khác.
Cuối năm, bà con lại giong buồm ngược lên Thạnh Mỹ chặt một loại cây
chuyên mọc ở gành sông, chủ yếu loại cây có tên là cây “rì nính”. Chặt
xong, bó lại, phơi thật khô rồi chở về. Nói thì dễ nhưng thực tế rất nhọc công,
phải chịu khó đi lùng. Chỗ này không có thì chuyển sang tìm chỗ khác. Và, trong
quá trình chặt cây, có đôi người như ông Trần Tự, ngư dân vạn Phường Đông, cũng
tranh thủ bủa câu kiếm thêm ít cá để bán kiếm tiền mua mắm muối, gạo thóc. Cá
bắt được chủ yếu cá ngạnh, cá rói, cá chày… và đôi loại cá khác.
Nghề “chươm” bắt đầu từ tháng 11 âm lịch năm trước đến tháng 6,
tháng 7 âm lịch năm sau. Khi cắm bổi xuống sông, phải có cọc giữ cẩn thận. Khi
cá vào ở, người ta mới dùng đăng, tức một tấm đan bằng tre, dài khoảng 20 thước
mộc, cao khoảng 4 thước mộc, bao lại. Xong, bà con vừa lấy bổi ra, dồn cá vào
một chỗ rồi xúc.
Cá bắt được đủ loại, từ cá lấu, cá bống, cá chày đến cá leo, cá diếc và
cả tôm. Nhưng, nhiều nhất vẫn là cá diếc. Ngoài ra, ngư dân vạn Phường Đông còn
hành nghề đắp. Nghề này chỉ làm được ở những đoạn có lạch sông, tức một đoạn
sông ăn vào trong bờ, thành “lạch”. Người ta dùng đăng tấn ngay cửa
lạch, phía trong để sẵn đó, hai bên có tấn bằng đăng, làm sao để khi tấn lại,
nước đứng, cá tự đi vào đó. Cá bắt được thường là cá chạc, cá bống.
Vào nửa cuối thập kỷ 1970, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai
đoạn ác liệt, địch tăng cường bắn phá bằng máy bay. Một trong những mục tiêu
chúng thả bom là ghe, thuyền đi lại trên sông. Nhiều ghe thuyền của ngư dân vạn
Phường Đông bị máy bay bắn nát, chìm xuống đáy sông. Thế cho nên, dù không muốn
lên bờ, tình thế bắt buộc họ cũng phải lên bờ. Danh xưng van Phường Đông dần
dần mất đi. Người dân ly tán, mỗi người mỗi ngả.
Và, cũng bắt đầu từ đó, bà con dần dần chuyển đổi ngành nghề. nhất là từ
sau ngày giải phóng, khi Nhà nước cấp đất cho bà con làng vạn. Hiện nay, chỉ
còn duy nhất một trường hợp còn hành nghề đánh bắt cá. Đó là ông Trần Hựu. Hầu
hết bà con có truyền thống nhiều đời đánh bắt cá chỉ đánh bắt vào mùa lụt, khi cá
trôi từ trên nguồn về đẻ ở nà dọc bờ sông.
Nguyên nhân chính khiến họ không
mặn mà với nghề cũ là do nạn chích điện tràn làn khiến cả cá con cũng chết. Môi
trường bị hủy diệt. Cá đã ít, lại bị đánh bắt theo kiểu tận diệt, ai còn đủ sức
bám lấy nghề đánh bắt quá bấp bênh này? Hệ quả là nghề đánh bắt cá truyền thống
của bà con vạn Phường Đông xưa nay chỉ còn trong ký ức mà thôi…