Sunday, February 19, 2012

HÒ KHOAN ĐỐI ĐÁP

            Mấy chục năm trở về trước, hò khoan là loại hình sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian phổi biến của người dân xứ Quảng. Thế nhưng, hò khoan có nhiều thể loại. Trong đó,  hấp dẫn nhất và để lại nhiều câu chuyện kể ly kỳ, hấp dẫn hơn cả là hát kiến tại, tức hát đối đáp tại chỗ, hay còn gọi là hát xạo. Thời bấy giờ, ở một làng có lúc có nhiều nhóm hát đối đáp, thi thố tài năng với nhau. Nhưng thường là làng này hát đối đáp với làng kia. Đã hát đối đáp, thường, nhóm nào thua thì tức anh ách, tìm cách hát cho “thắng” đối thủ. Nghĩa là hát sao đó để đối phương “bí”, không hát đối lại được. Đặc biệt, mỗi vùng, mỗi địa phương lại lưu giữ những giai thoại khác nhau, làm phong phú thêm kho tàng văn học dân gian xứ Quảng trải qua hàng mấy trăm năm trong lịch sử.
Một khúc sông Thu Bồn. Ảnh Đ.Đ

Tại xã Bình Nam, huyện Thăng Bình, có chuyện rằng hồi nửa đầu thế kỷ XX, thanh niên Bình Nam thường qua làm quen với nhóm nữ làng Trà Sơn. Cứ chiều tối, họ rủ nhau băng qua một ngọn núi cũng có tên Trà Sơn để đến làng Trà Sơn. Thế rồi,  không biết ai bày biểu thế nào, trong một đêm hát hò khoan đối đáp nọ, có một cô gái ở Trà Sơn ra câu đố khá độc:“Hò… ơi!/ Chớ trai Trà Sơn gánh củi Trà Sơn/ Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt/ Anh đối đặng rày nhật nguyệt giao cho/ Hố hợi là hò khoan…”. Trong tiếng Hán, hai chữ “sơn” viết chồng lên nhau thành ra chữ “xuất”. Cho nên, mới có câu “Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt”. Câu hát đố khó là khó chỗ đó. Nó bắt người giải phải tìm ra chữ nào tương tự để đối lại. Mà, đối được, con gái Trà Sơn mới “…rày nhật nguyệt giao cho”, nghĩa là chấp nhận làm quen với trai xã Bình Nam. Nhưng đối được rõ ràng không phải là chuyện dễ. Dĩ nhiên, đám thanh niên Bình Nam thua. Đã thua, họ tức lắm. Mà thua “mưu” con gái thì ra thể thống gì, ăn nói làm sao, rồi tán tỉnh sao được?.
Thế nên họ quyết chí “phục hận”. Họ mới nhờ “quân sư” là người học giỏi, thành thạo hát đối đáp để giúp đỡ. Đó là ông thầy Bảy, thầy dạy chữ Hán trong làng. Tối hôm sau, họ “cõng” thầy đến làng Trà Sơn để thầy mách nước. Y như răng, mấy cô gái kia hát lại câu cũ. Nghe xong, thầy ghé tai nói nhỏ với đám thanh niên Bình Nam. Nghe xong, một anh thanh niên Bình Nam hát hay nhất mới đứng lên cất giọng:“Hò… ơi!/ Gái ba nguyệt dạo chơi ba nguyệt/ Nguyệt nguyệt bằng quỷ khóc thần sầu/ Anh mà đối đặng thì thiếp làm dâu nhà chàng/ Hố hợi là hò khoan”. Câu đói quá hay. Khi anh thanh niên hát vừa xong, mọi người vỗ tay rầm rầm. Thì ra, để đối lại câu “Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt”, ông thầy Bảy liền ứng câu “Nguyệt nguyệt bằng quỷ khóc thần sầu”. Trong chữ Hán, hai chữ nguyệt viết liền kề nhau thành ra chữ bằng. Bằng ở đây có nghĩa là bằng hữu. Có thể nói, câu đối lại khá hoàn chỉnh. Đám trai làng hỉ hả vì đối được vế đối của con gái làng Trà Sơn.
Lại có chuyện kể ở làng nọ, có đám thanh niên qua hát hò khoan với nhóm nữ làng kia. Thấy nhiều anh em trêu ghẹo mình thái quá, một cô gái muốn “dạy” cho đám thanh niên một… bài học, mới cất tiếng hát: “Hò… ơi!/ Thân em như bộ lư đồng đỏ bên Tàu/ Chở qua Nam Việt lựa nhà giàu bán chơi. Hố hợi là hò khoan”. Câu ra đối này khá đơn giản. Nhưng, để ứng lại tức thì không phải ai cũng làm được. Đòi hỏi người đối lại phải nhanh trí, thông minh. Xưa, nồi đồng, mâm đồng và đặc biệt lư đồng, nhất là lư đồng bên Tàu đem sang rất quý. Nhà giàu có, dư ăn dử để mới sắm nổi. Còn dân thường chủ yếu dùng nồi đất là chính. Mượn lư đồng, lại là lư đồng bên Tàu, ý người nữ ở đây đề cao mình, cho mình cao sang, đám trai làng không dễ gì “tán tỉnh” nổi đâu. May mà trong số đó, có một anh đối lại được: “Hò… ơi!/ Thân anh như thằng ăn trộm cắt rào/ Đụng lê anh cũng bẻ gặp đào anh cũng quơ/ Anh đánh ngạch vô thấu bàn thờ/ Trước anh quơ đồ lặt vặt sau anh rờ bộ lư/ Hố hợi là hò khoan”.
Một lớp học chữ nho xưa. Ảnh tư liệu

Một câu chuyện khác cũng không kém phần lý thú. Chuyện rằng thấy đám trai làng bên cứ qua tán hoài, nhóm nữ làng nọ không ưa, liền mượn chuyện hát đối đáp để “tống khứ” mấy anh này đi. Vậy là một cô cất giọng hát: “Hò… ơi!/ Anh ra làm chi mỗi tháng mỗi ra/ Anh ra một lượt cực em ba bốn ngày. Hố hợi là hò khoan”. Chúng ta cũng biết, chị em mỗi thánh có… kinh một lần. Mỗi lần “bị”, dĩ nhiên chị em rất mệt. Chuyện hoàn toàn có thực. Nhưng, cái độc của chị em là mượn sự việc có thật đó để ám chỉ sự việc khác. Tức mấy anh đến chơi làm phiền tụi tui quá, giống như mỗi tháng tui đều có… kinh, mệt muốn chết. Quả thật, nhóm nữ làng nọ không phải tay vừa. Hơn thế nữa, lại coi mấy anh em nhà ta chẳng ra gì. Ai lại có sự ví von ác mồm ác miệng như thế chứ? Tưởng đám thanh niên thua một bàn trắng. Nhưng không, bỗng có một thanh niên đứng lên, dõng dạc đối lại: “Hò… ơi!/ Tam Kỳ, Đại Lộc, Phú Yên, khánh Hòa/ Chốn kinh kỳ là chốn nhạc gia qua ở thường/ Không đi  thì ổng nhớ bả thương/ Còn phận anh là rể xa đường quản chi/ Đi thời phải sắm lễ nghi/ Có lần ổng trả có kỳ ổng ăn luôn/ Không đi cha ông nghỉ mẹ ổng buồn/ Ổng có ra thăm cháu em nhớ chống chiếc xuồng cho cha vô/ Cha vô năm ba bữa cha buồn/ Ổng có trở về nhạc mẫu em nhớ chống chiếc xuồng cho ổng ra/  Hố hợi là hò khoan”.
Đến nước này, dĩ nhiên, nhóm nữ cũng đành… thua!

1 comment:

Anonymous said...

Hay đấy! Sao không chú thích nguồn trích