"Kể
từ ngày Tây lại cửa Hàn
Đào sông Câu Nhí đắp đàng Bông Miêu"
Đây là câu hát khá quen
thuộc của người dân Quảng Nam, Đà Nẵng. Nó đánh dấu một sự kiện lịch sử khi
thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XIX và tiến hành công
cuộc khai thác thuộc địa ở miền Trung nói riêng và cả nước ta nói chung. Nhưng,
Bông Miêu hay Bồng Miêu ? Quảng Nam có địa danh Bông Miêu, thôn Bông Miêu, mỏ
vàng Bông Miêu không ? Hay đó chỉ là sự nhầm lẫn từ địa danh Bồng Miêu ? Quả
thật, vấn đề không đơn giản.
Trong nhiều
tác phẩm, bài viết, bài nghiên cứu, nhiều tác giả dùng "Bông
Miêu" thay vì "Bồng Miêu”. Ông Nguyễn Văn Bổn trong
"Văn học dân gian Quảng Nam - Đà
Nẵng” do Sở Văn hoá Thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng xuất bản năm
1983, ở trang 54, khi dẫn câu hát nói trên cũng dùng danh xưng "Bông
Miêu”. Trong bài viết "Đất Quảng quê tôi” đăng trong "Quảng
Nam - Đà Nẵng xưa và nay” do Nhà Xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 1996, trang
219, học giả Nguyễn Văn Xuân cũng trích câu hát ấy với cụm từ "Bông
Miêu" chứ không phải "Bồng Miêu”. Gần đây nhất, trong công
trình nghiên cứu có nhan đề "Tìm hiểu con người Xứ Quảng” do nhà
văn Nguyên Ngọc làm chủ biên, được Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Nam ấn hành năm
2004, trang 205, các tác giả có dẫn câu:
"Kể từ ngày Tây lại Cửa Hàn
Đào sông Câu Nhí đắp đàng Bông Miêu”
Một góc Bồng Miêu. Ảnh Đ.Đ |
Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi phát hiện ít ra có đến hai tài liệu
thời Pháp dùng "Bồng Miêu” thay vì "Bông Miêu”. Đó là
tài liệu có nhan đề là "Tableau Faisant connaitre le mouvement de la
statistique minière dans la province de Quang Nam - au Juin 1919" có số
ký hiệu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II là 1098 RSA/HC. Tại mục "Noms
et domicile des explorateurs” (Tên và nơi ở của những nhà thăm dò)
ghi "Compagnie minière de Bồng Miêu" (tức Công ty mỏ
Bồng Miêu).
Sông Vàng, con sông huyền thoại ở mỏ vàng Bồng Miêu. Ảnh Đ.Đ |
Tài liệu thứ hai là "Lettre du Conseil Secret à M.le
Résident Supérieur en Annam au sujet des décisions à prendre relativement aux
mines à Quang Nam” (Tạm dịch "Thư của Hội đồng Cơ mật gửi ngài Khâm
sứ Trung Kỳ về những quyết định liên quan đến mỏ ở Quảng Nam”) đề ngày 14
tháng 4 năm 1896 có số ký hiệu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II là RSA - 119
cũng viết rõ Bồng Miêu chứ không phải Bông Miêu
Tuy nhiên, chứng cứ có sức thuyết phục nhất là những ghi chép ở tập sách
"Đồng Khánh dư địa chí lược”. Trong tác phẩm "Từ điển di
tích văn hoá Việt Nam” do ông Ngô Đức Thọ làm chủ biên, Nhà Xuất bản Văn
Hoá xuất bản năm 2003, ở trang 111, có dẫn ra một ngôi miếu được nêu trong "Đồng
Khánh dư địa chí lược". Đó là "Bồng Miêu miếu”. Đặc biệt,
các tác giả của tập sách này có viết lại Bồng Miêu miếu bằng chữ Hán. Đó
là các chữ 芃苗 Chữ Bồng có bộ thảo ở
trên bộ kỷ. Bên trong bộ kỷ có một nét ngang. Chữ Miêu 苗 có bộ thảo phía trên, dưới là bộ điền. Hai chữ 芃苗 chỉ có thể dịch sang tiếng Việt là Bồng
Miêu, hoàn toàn không thể dịch là Bông Miêu.
Từ cứ liệu ấy, chúng ta có thể
khẳng định Quảng Nam chỉ có địa danh Bồng Miêu, mỏ vàng Bồng Miêu chứ không hề
có địa danh Bông Miêu, mỏ vàng Bông Miêu. Hơn thế nữa, hiện vẫn còn một thôn
gọi là thôn Bồng Miêu, nơi có mỏ vàng Bồng Miêu thuộc xã Tam Lãnh, huyện mới
Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Như thế, câu hát đã trích đúng ra phải sửa lại là:
"Kể từ ngày Tây lại cửa Hàn
Đào sông Câu Nhí đắp đàng Bồng Miêu”
No comments:
Post a Comment