Monday, September 12, 2011

CHUYỆN... CỞI TRUỒNG XƯA

Về An Bằng, một ngôi làng nhỏ thuộc xã Đại Thạnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, tôi được nghe kể chuyện.... cởi truồng. Đây là chuyện mà theo ông Lê Văn Pháp, sinh năm 1927, một trong những lão làng am hiểu lắm chuyện xưa tích cũ, đoan chắc với tôi rằng thật 100%. Đặc biệt, chung quanh chuyện ở truồng, lại có nhiều tình tiết... cười ra nước mắt. Xin ghi lại câu chuyện này, trước là để chúng ta có thể phần nào hình dung sự nghèo khổ, khốn khó của một vùng quê Quảng trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sau cũng là để cho con cháu hiểu cuộc sống tươi đẹp ngày hôm nay của chúng ta bắt đầu từ đâu!

Làng An Bằng hiện nay. Ảnh Đ.Đ

Làng An Bằng xưa là một làng nghèo nằm tiếp giáp với dãy Trường Sơn hùng vĩ. Tuy diện tích khá rộng, lên đến 400 ha nhưng hầu hết là đồi núi. Người dân trong làng chủ yếu sinh sống bằng nghề hái chè thuê, đi lấy mật ong rừng, khai thác dầu rái cho chủ dầu hoặc đốn củi đốt than... Do vậy, đa phần bà con đều nghèo khổ, khốn khó trăm bề. Ăn uống thiếu thốn đã đành, áo quần nhiều gia đình cũng rách nát, mặc không đủ che, chưa nói chuyện ấm. Nhiều người vẫn còn nhớ trường hợp vợ chồng ông Thái nghèo đến mức một dạo cả hai vợ chồng chỉ có độc một cái quần. Thế nên khi ổng có việc đi mô. bả phải ở nhà đắp chiếu. Còn bả đi mô, ổng cũng phải đắp chiếu nằm. Mới biết, cái khổ của dân nghèo chẳng thời nào giống thời nào. Cũng cần nhắc lại là hồi bấy giờ, vải ta rất dễ hỏng. Ai giữ giỏi lắm cũng không quá ba tháng. Khi giặt, thậm chí người ta cũng không dám vắt, chỉ nhúng nước, lấy hai tay dập dập lại, xong giũ giũ cho ráo nước rồi phơi. Đàn ông đi làm, chủ yếu ở trần. Chỉ đi đâu, mới mặc áo.
Không chỉ vải quý, áo quần quý mà ngay cả... giẻ rách cũng quý. Bởi vì, không dễ gì có miếng giẻ rách để vá áo quần. Lấy giẻ ở đâu ra? Dân nghèo nhiều khi tìm miếng giẻ đỏ con mắt cũng không có, phải đi xin những gia đình khá giả, có của ăn của để. Cho nên, ra đường, lắm người mặc áo hở cổ, hở vai, vá chùm vá đụp. Từ chỗ nghèo quá, khó quá, người ta giữ quần áo cực kỳ thận trọng. Giữ đến mức khi đi làm, xa nơi ở, chỗ tương đối vắng vẻ, cánh đàn ông thanh niên nhà nghèo cứ... tự nhiên cởi truồng, cốt quần khỏi rách. Bấy giờ, nhiều người khi đi úp cá, nước mới lưng đầu gối thôi, cũng đã cởi quần, cứ tồng ngồng mà làm, còn quần thì bỏ vô mo cau, chẳng sợ người ta dòm ngó, xì xầm bàn tán gì cả. Nhưng, không chỉ vậy, lúc tát cá, thấy nhiều cá quá, có lúc mấy bà, mấy chị cứ ào đến xúc... tự nhiên, không ai để ý đến chuyện cánh đàn ông thanh niên đều ở truồng. Thế mới lạ!


Cảnh làng quê trước năm 1945. Ảnh Tư liệu

Nói thế để thấy rằng ở làng An Bằng, hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chuyện đàn ông cởi truồng là chuyện hết sức bình thường. Chỗ vắng vẻ ở truồng đã bình thường thì khi lên núi đốn củi, đốt than, khai thác dầu rái... tất nhiên, họ đều ở truồng. Bấy giờ, An Bằng là mảnh đất lắm cọp, nhiều voi, chưa kể các loài thú dữ khác. Cho nên, khi lên núi, bà con có nhiều thứ phải kiêng kỵ. Từ đó, mới lưu truyền chuyện kể khá lý thú và hấp dẫn. Số là năm nọ, trong làng, có đôi vợ chồng kia gả con gái cho gia đình nọ. Chàng rể lại xin ở rể. Sau đám cưới, cháng rể mới theo ông gia lên rừng hành nghề.
Do biết con rể mới chân ướt chân ráo vào “sơn tràng”, tất cả moị chuyện đều bỡ ngỡ nên ông gia dặn rất kỹ. Con rể một dạ hai dạ. Sáng hôm ấy, hai cha con xuất hành. Đây là buổi “ra quân” đầu tiên của chàng rể nên theo thông lệ, phải có lễ cúng “sơn thần”, xin “người khuất mặt” cho phép vào làm ăn. Khi vào đến khe, người con rể bắc ấm, nấu nước chè rồi đem gói cơm ra, lấy rựa vót đũa, bày tất cả lên một tàng đá to, quỳ lạy, lầm rầm khấn vái. Nội dung đại khái “Hôm nay, ngày.... tháng.... năm, tui tên là....., quê quán ở.... Nay xin vào đốn củi, đốt than, kiếm miếng cơm, manh áo. Theo lệ thường, tui có chút lòng thành, xin làm mâm cơm đạm bạc, xin cô bác ai thấy nấy ăn, phù hộ cho tui vào ra thông suốt, tai qua nạn khỏi, may mắn trăm bề.. Kính cẩn.”.
Khấn xong, người con rể đợi một lát, vái lại, rồi đem cơm xuống, ăn để lấy sức đi tiếp. Đây cũng là lúc hai cha con cởi quần ra, bỏ vào mo cau, lên dốc. Cứ cha đi trước, con rể theo sau. Đi một đoạn, con rể thấy đít ông già vợ sao teo riết, mới vô tình buột miệng, hỏi “Cha ơi, răng đít cha beo riết rứa?”. Ông gia nghe đến tiếng “beo” thì sợ điếng hồn. Beo với cọp thì có gì khác?. Đã dặn kỹ, thế mà... Ông gia vừa nghĩ vừa ngoái đầu lại, trừng trừng nhìn con rể, tỏ ý không bằng lòng. Anh con rể thấy thái độ ông gia, thấy sờ sợ, mới nói tiếp, như để chữa thẹn, nhưng càng nói lại càng sai “Chi mình nói giỡn mà ổng trở mặt hùm!”. Lần này, ông gia giận lắm nhưng cũng không nói gì. Tối về, ông gia hoàn hồn, kể với gia đình “Tui về rồi mới tỉnh, hết sợ. Thú thật, sáng nay, nghe thằng rể nói nổi da gà. Ai đời nó quở đít tui beo, tui trừng mắt thì nó bảo mới giỡn chút mà tui trở mặt hùm... Nói như rứa có ngày chết như chơi!”.
Chuyện cởi truồng khi đi núi ở An Bằng thật sự chấm dứt sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Bây giờ, những người già, ít ra cũng ở lứa tuổi “thất thập cổ lai hi” mới còn nhớ và nhắc chuyện ở truồng thời xa xưa đầy khó khăn, gian khổ ấy. Và, ngay trong làng, cũng có khối người ngẫn tò te, cứ bán tín bán nghi... Nhưng, đó là chuyện thật trăm phần trăm. Mà, bấy giờ, do ai cũng ở truồng hết nên chẳng ai thấy dị, thấy ngượng[1] 


[1] Ông Lê Văn Pháp, sinh năm 1927, thôn An Bằng, xã Đại Thạnh, huyện Đại Lộc,  tỉnh Quảng Nam, kể.

No comments: