Chuyện kể rằng mấy trăm năm
trước, khi từ đất Bắc vào đây khai canh khai cư, lập làng lập xóm, bà con các
tộc họ làng Thanh Đơn, nay thuộc xã Đại Cường, huyện Đại Lộc, chủ yếu sinh sống
bằng nghề nông. Tuy nhiên, do đất ruộng ít, hầu hết đều tập trung vào tay một
số gia đình giàu có như gia đình các ông Như, ông Huyến, ông Xã Thể, ông Xã
Liễn nên đại đa số phải làm thuê, làm rẻ và làm đủ các nghề khác để kiếm miếng
cơm manh áo hàng ngày.
Trong những nghề khác ấy, phổ biến nhất là đi
cây. Muốn đi cây, họ phải thực dậy từ ba, bốn giờ sáng đã, ăn một bụng… thật no
rồi đùm thêm một ít cơm độn toàn khoai, sắn đem theo. Cứ thế, cả đoàn độ bảy,
tám người rủ nhau âm thầm đi xuyên bóng đêm, làm sao để trời vừa sáng thì đã
đến chân rừng, bắt đầu luồn suối, băng rừng, tìm cây mà chặt, mà hạ. Xong xuôi,
nghỉ ngơi ăn uống rồi cứ thế, vác gỗ về.
Thế rồi, vào khoảng giữa thế kỷ XIX, có một người thợ quê gốc Quảng Ngãi
được thuê làm xe gió ngay trên khúc sông Vu Gia chảy qua xã Đại Cường. Rồi,
không biết lý do gì, ông ở luôn tại Thanh Đơn, truyền nghề cho dân làng. Từ đời
ông đến đời ông Hứa Minh, sinh năm 1923 cũng đã ba đời. Còn tính cả thế hệ con
cháu nữa thì cũng lên đến năm, sáu đời.
Như vậy, nghề làm xe gió ở Thanh Đơn hình thành cách nay khoảng 150 năm
trong lịch sử. Thời gian đầu, còn “lạ nước lạ cái”, trong làng chỉ có
đôi người theo nghề làm xe gió. Khi họ làm được, gây chút ít tiếng tăm, thoát
khỏi cảnh ngày ngày phải trèo đèo lội suối, sợ cọp rừng, ngại thú dữ rập rình…
thì số người tình nguyện gia nhập đội quân “xe gió” mỗi lúc một đông
thêm. Tính đến đầu thế kỷ XX, đã có hàng chục thợ làm xe gió.
Thường thường, trong nghề làm xe gió, phải có một ông chuyên nhận thầu,
gọi là ông Thủ mực13. Khi ai đến đặt vấn đề, ông Thủ mực sẽ tính
toán tiền công một cách rõ ràng, rồi ra giá. Nếu đối tác đồng ý, ông sẽ tập
trung thợ lại, phổ biến kế hoạch để bắt tay vào làm.
Tại Thanh Đơn, cũng trong
khoảng thời gian ấy, trong làng có ba ông Thủ mực. Đó là các ông Hương Lưỡng,
ông Hương Thu và ông Hương Nhứt. Nhiều công trình xe gió được thợ Thanh Đơn thi
công và hoàn thành như các công trình xe gió ở Hà Nha, Phước Yên, Bồ Khoan, Tân
Đợi, Phúc Hương. Đó là những công trình nằm trên địa bàn huyện, chưa kể nhiều
công trình khác ở các huyện chung quanh.
Xe gió hay còn gọi là xe
nước xưa. Ảnh tư liệu.
Khoảng nửa đầu thế kỷ XX
trở về trước, cũng như nhiều địa phương khác, khi các vùng nông thôn chưa có
máy bơm thì ở Quảng Nam, chuyện sử dụng xe gió để lấy nước tưới các cánh đồng
trong mùa khô hạn là một giải pháp hợp lý được nhiều nơi áp dụng. Theo tính
toán, để tưới 100 mẫu lúa, xe gió phải có 10 “bánh”. Bình quân, mỗi “bánh”
có thể tưới được 10 mẫu. Mỗi người có thể nhận nửa bánh, một bánh hoặc hai
bánh, tuỳ theo khả năng của mình. Cứ nhận nhiều
thì trả tiền nhiều. Bấy giờ, xe gió thường bắt đầu chạy vào tháng 2 âm lịch và
đến khoảng tháng bảy, tháng tám âm thì tháo ra, nghỉ. Đây cũng là thời điểm bắt
đầu mùa mưa, không thiếu nước. Hơn nữa, cũng là mùa lụt lội. Nếu cứ để nguyên,
khi xảy ra lũ lụt, dòng nước chảy quá mạnh có khả năng sẽ phá hỏng xe gió.
Những người bỏ tiền ra thuê thợ làm xe gió họp lại bầu ra ban quản trị,
chịu trách nhiệm lo việc trông nom xe gió, đắp kênh mương để dẫn nước vào đồng
ruộng và… thu thuế nước. Thuế bấy giờ được tính bằng lúa. Cứ quy ra, một mẫu
một mùa là bao nhiêu, khi thu hoạch phải trả đủ. Khi thu hoạch, mấy anh bỏ tiền
ra làm xe gió cứ canh lấy đủ lúa. Tất cả đều được đổ vào một nơi quy định. Rồi,
họ có thể đạp chung rồi chia, theo phần đóng góp của mỗi người.
Bờ xe gió hiếm hoi còn sót lại ở Đại Lộc. Ảnh Đ.Đ
Cũng lắm khi chia theo gánh. Phần ai gánh phần người nấy, về nhà mới đạp
ra. Với những người thợ làng Thanh Đơn, sau khi hoàn thành xe gió, thường được
ban quản trị thuê túc trực sửa chữa khi hư hỏng, trục trặc trong quá trình vân
hành xe gió. Tiền thuê được tính bằng lúa. Cứ mỗi mùa quy định bao nhiêu, khi
thu lúa, ban quản trị có bổn phận trả cho thợ đầy đủ.
Vào những năm thập kỷ 1960, 1970, trên các dòng sông Vu Gia, người ta bắt
đầu dùng máy bơm bơm nước thay cho xe gió. Hễ máy bơm được lắp đặt đến đầu thì
xe gió biến mất đến đó. Rõ ràng, máy bơm tiện lợi hơn xe gió nhiều mặt. Thế cho
nên, thay vì làm xe gió, tiện lợi nhất là… mua một chiếc máy bơm, vừa gọn nhẹ,
vừa hiệu quả gấp nhiều lần xe gió. Cho nên, chiếc xe gió cuối cùng mà người thợ
làm xe gió Thanh Đơn thi công là chiếc xe gió Phúc Hương được làm ngay sau ngày
giải phóng, cũng trên mảnh đất Đại Cường. Phụ trách thi công lúc bấy giờ là ông
Thê.
Và, sau hàng chục năm vắng bóng, khách đi trên tuyến đường sông Vu Gia
qua Đại Cường vào thời kỳ ấy không mấy ai không mục kích chiếc xe gió này. Nhờ
nó mà hàng trăm mẫu đất quanh đó được tưới nước đều đặn, góp phần không nhỏ
chống hạn hán, tăng năng suất cây lúa lúc bấy giờ. Kể từ khi chiếc xe gió Phúc
Hương bị dẹp bỏ, nghề làm xe gió Thanh Đơn cũng thật sự cáo chung. Hình ảnh
những chiếc xe gió to đùng trên những dòng sông xứ Quảng giờ chỉ còn là kỷ niệm
trong tâm trí của lớp ngưòi cao tuổi mà thôi[1].
No comments:
Post a Comment